Phật Thuyết Kinh ưu Bà Tắc Giới - Phẩm Hai Mươi Bốn - Nghiệp Báo - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI BỐN
NGHIỆP BÁO
PHẦN HAI
Thiện nam tử! Chúng sinh tạo tội, phàm có hai loại: Ác giới, không giới. Người thọ ác giới, tuy chỉ giết một con dê, lúc giết và lúc không giết, đều mắc tội sát hại.
Vì sao?
Vì trước đó đã phát thệ nguyện. Còn người không thọ giới, tuy giết ngàn người, lúc giết thì mắc tội, còn lúc không giết thì không mắc tội.
Vì sao?
Vì không phát thệ nguyện. Vì thế tâm là căn bản của tất cả pháp thiện và bất thiện.
Nhân vì căn bản mà nói các vị Tỳ Kheo phạm tội chỉ có hai cách: Thân phạm, miệng phạm, mà không có tâm phạm.
Loại giới pháp này, nếu như thời gian không đầy đủ, điều kiện không đầy đủ, thì không thể được giới thể. Ví như cọ cây lấy lửa, phải có đầy đủ kính rọi, sức người, cỏ khô v.v... sau đó mới được lửa, nếu thiếu một điều kiện, ắt sẽ không có lửa. Giới pháp cũng như thế.
Loại giới pháp này, hoặc được giới thể, hoặc xả giới, hoặc trì giới, hoặc giữ giới, đều tùy nơi tâm. Đức Như Lai biết rõ pháp tính, cho nên chế định loại giới pháp này.
Hoặc nếu có người, do vì thế lực của sự suy ngẫm nghiệp lành, nên không tạo nghiệp ác, đây gọi là giới đúng như chánh pháp.
Nếu như từ người khác mà được giới thể, đây gọi là thọ giới.
Nếu như không thọ giới mà được công đức, thì các loài ác thú như sư tử, hổ, chó sói v.v... đều phải được công đức. Thế nhưng, thực sự không phải như vậy. Do nhân duyên này, thọ thiện giới được vô lượng phước, thọ ác giới mắc vô lượng tội.
Trong Kinh nói đến các ác luật nghi như sau: Nuôi dê, nuôi gà, nuôi heo, câu cá, đánh cá, giết trâu bò, làm ngục tốt, nuôi chó săn, làm bẩy, làm thợ săn, dùng chú thuật sai Rồng làm ác, giết người, làm đạo tặc, nói đâm thọc, dùng những hình cụ như roi, gậy, gông cùm, đinh sắt, lửa v.v... để hành hạ người khác.
Lại nữa, Quốc Vương, đại thần thọ nhận sự gửi gắm nhưng lại bội ước, những người bạc bẽo vô ơn, những người trưởng làng đại ác, những người thu thuế hung dữ, những Tỳ Kheo phá giới tâm không hổ thẹn, những người như thế đều không có giới thể. Dù không gọi là nghiệp đạo bất thiện, nhưng bị mắc tội nặng.
Vì sao?
Vì suốt đời làm ác.
Những việc như vậy, nếu không lập thệ nguyện, hoặc nếu không từ người khác thọ, đều không thành tựu giới thể.
Ác giới bị xả trong bốn trường hợp: Lúc biến thành người hai căn, lúc mạng chung, lúc thọ thiện giới, lúc đoạn trừ kiết phược của Cõi Dục.
Hoặc có người cho rằng: Giống như giới thiện đầy đủ ba thời, giới ác cũng đầy đủ.
Điều này không đúng!
Vì sao?
Vì giới ác dễ được, chỉ cần một nhân duyên là được, nghĩa là lập thệ nguyện.
Còn giới thiện không phải vậy, phải đầy đủ năm điều kiện: Tín, giải, niệm, định và tuệ, mới thành tựu, do đó khó được. Vì khó được nên phải đầy đủ.
Hoặc có người nói: Giới Ưu Bà Tắc không có các điều giới: Nói vô nghĩa, nói đâm thọc, nói lời ác, do đây giới Ưu Bà Tắc, giới Bát Quan Trai, giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, không được đầy đủ giới thể.
Điều này không đúng!
Vì sao?
Vì ta nay đang thọ trì khẩu nghiệp trong sạch.
Nếu có người nói: Tôi thọ năm giới để làm thanh tịnh thân khẩu ý. Nếu lúc thọ giới, tâm không thanh tịnh, nên biết người đó không được đầy đủ giới thể.
Ví như có người, sau khi thọ ác giới, dù không sát sanh, người đó thường thường thành tựu ác giới. Tỳ Kheo hủy phạm cấm giới cũng giống như vậy.
Vì sao?
Vì sau khi thọ giới, bên cạnh mỗi điều giới có nhiều nghiệp nhiều quả. Chúng sinh vô lượng, giới cũng vô lượng. Vạn vật vô lượng, giới cũng vô lượng.
Giới thiện giới ác đều có ba phẩm: Thượng, trung, hạ. Nếu như không thọ ác giới, dù phạm nhiều tội, cũng không gọi là ác giới.
Nếu có người cật vấn: Vì nhân duyên gì mà ngũ giới phải thọ trì suốt đời, còn giới Bát Quan Trai chỉ cần thọ trì một ngày một đêm?
Nên trả lời họ rằng: Đức Như Lai khéo biết pháp tướng, thông đạt vô ngại, cho nên Ngài đã lập định giới pháp như vậy.
Thiện nam tử!
Ruộng phước thế gian có hai loại: Ruộng công đức, ruộng báo ân. Nếu giết hại hai loại ruộng phước này, gọi là phạm tội ngũ nghịch.
Tạo tội ngũ nghịch, có ba nhân duyên: Có tâm cực ác, không biết phước đức, không thấy quả báo chân chánh.
Nếu có người tưởng A La Hán là người khác mà giết lầm, thì không bị phạm tội nghịch. Đối với cha mẹ cũng giống như vậy.
Nếu như tâm không biết hổ thẹn, không nghĩ tưởng đến việc báo ân, tâm không cung kính, chỉ mới tạo tội phương tiện, nhưng chưa tạo tội căn bản, người đó tuy chưa phạm tội ngũ nghịch, nhưng cũng sẽ bị quả báo rất nặng. Vì cha mẹ có công dạy dỗ, thương yêu, chăm sóc, nhẫn chịu sự khó khăn, làm tất cả mọi việc, chịu mọi sự khổ sở, vì thế cha mẹ được gọi là ruộng báo ân.
Nếu như có người sát hại cha mẹ, tuy họ tu tập thiện pháp, cũng không được quả báo lành.
Bởi thế ta nói: Đối với chỗ che chở của mình, dù là chỉ trong khoảnh khắc, cũng không nên hủy hoại, chặt phá cành, nhánh, hoa, quả!
Thiện nam tử! Sau khi ta diệt độ, có những đệ tử của ta sẽ có những lập luận sau: Nếu do tưởng nghĩ khác, tên khác mà giết cha mẹ, thì không phạm tội nghịch, đây là phái Đàm Vô Đức.
Nếu như cho rằng: Tuy do tưởng nghĩ khác mà giết cha mẹ, vẫn là phạm tội nghịch, đây là phái Di Sa Tắc.
Nếu như cho rằng: Tuy do tưởng nghĩ khác, tên khác mà giết cha mẹ, đều bị phạm tội nghịch, đây là phái Tát Bà Đa.
Vì sao?
Đây là sự thật trên thế gian, đáng được tin cậy. Nếu thực là cha mẹ, mình cũng biết chắc là như vậy, mà dùng tâm ác sát hại, tức là phạm tội nghịch. Tuy thực là cha mẹ mình, nhưng không biết, không khởi ác tâm, tuy lỡ giết chết, cũng không phạm tội nghịch.
Vì sao?
Phải đầy đủ bốn điều kiện mới phạm tội nghịch: Là cha mẹ thật của mình, khởi tâm ác, khởi tâm xả bỏ, không nhận là cha mẹ, biết họ là chúng sinh. Đầy đủ bốn điều kiện này mới thành tội nghịch, nếu như không đầy đủ thì không thành tội nghịch.
Nếu như vì thương xót, hoặc vì cung kính, hoặc vì thọ trì một pháp nào đó, hoặc vì sợ hãi, hoặc vì danh tiếng, mà đem những công cụ sát hại đưa cho cha mẹ, tuy không tự tay mình giết, nhưng vẫn phạm tội nghịch.
Nếu như bị người khác sai giết cha mẹ, khóc lóc buồn rầu mà làm, thì trong ba thời đều phạm tội nhẹ.
Nếu như muốn giết cha mẹ, mà lại giết lầm người khác, không bị phạm tội nghịch. Muốn giết người khác, lại giết lầm cha mẹ, cũng giống như vậy.
Hoặc muốn giết mẹ, lại giết lầm người giống mẹ, giết xong cất dao, lại trúng nhằm thân mẹ, làm cho mẹ chết, không bị phạm tội nghịch. Người mẹ dung mạo đổi khác, người con giết mẹ mà vẫn cho là đang giết người khác, thì chỉ phạm tội sát hại, mà không phạm tội nghịch.
Năm tội nghịch này, tội giết cha tương đối nhẹ hơn tội giết mẹ. Giết A La Hán tội nặng hơn giết mẹ, làm thân Phật chảy máu, tội nặng hơn giết A La Hán. Phá hòa hợp tăng, tội nặng hơn làm thân Phật chảy máu.
Có việc nặng ý nhẹ, việc nhẹ ý nặng, việc nặng ý nặng và việc nhẹ ý nhẹ. Việc nặng ý nhẹ, chẳng hạn như giết hại cha mẹ nhưng không có tâm ác. Việc nhẹ ý nặng, chẳng hạn như dùng tâm ác giết súc sinh. Việc nặng ý nặng, chẳng hạn như dùng tâm cực ác giết hại cha mẹ. Việc nhẹ ý nhẹ, chẳng hạn như dùng tâm vô ký giết hại súc sanh.
Những ác nghiệp này có:
Nghiệp khởi phương tiện là nặng, còn nghiệp căn bản và đã thành lại nhẹ.
Nghiệp khởi phương tiện và căn bản nhẹ, còn nghiệp đã thành lại nặng.
Nghiệp khởi phương tiện và căn bản nặng, còn nghiệp đã thành nhẹ.
Nghiệp căn bản nhẹ, còn nghiệp khởi phương tiện và đã thành nặng.
Việc làm chỉ là một yếu tố, do tâm lực mà có quả báo nặng nhẹ.
Thiện nam tử! Có người đem thức ăn định bố thí cho ta, nhưng lúc chưa kịp cho ta lại đem bố thí cho chó đói. Ta cũng khen ngợi người ấy là đại thí chủ. Nếu có người bố thí, không phân biệt người nhận là phước điền hay không phước điền, người ấy sẽ được vô lượng phước đức.
Vì sao?
Vì tâm lành thanh tịnh.
Nghiệp có bốn loại quả báo: Quả báo ngay hiện đời, quả báo ngay đời sau, quả báo ở nhiều đời sau, không có quả báo.
Lại có bốn loại quả báo: Thời gian nhất định, quả báo không nhất định. Quả báo nhất định, thời gian không nhất định. Quả báo và thời gian đều nhất định. Quả báo và thời gian đều không định.
Thời gian nhất định, nghĩa là hiện đời, đời kế tiếp, đời sau nữa. Nếu như thời gian và quả báo không định, nghiệp đó có thể bị chuyển đổi. Nếu như quả báo nhất định đời sau thọ, có thể chuyển thọ ở đời này.
Vì sao?
Do lực lượng của tâm thiện trí tuệ nhân duyên. Nếu như quả báo ác là nhất định, có thể chuyển thành quả báo nhẹ.
Vì lý do nào mà gọi là quả báo nhất định?
Bởi vì người đó thường không biết hối hận, chuyên tâm làm ác, hoặc vì ưa thích làm, lập thệ nguyện mà làm, làm xong vui mừng, cho nên được những quả báo nhất định như vậy. Ngoài những trường hợp này ra, tất cả đều gọi là bất định.
Hành nghiệp của chúng sinh, có nhẹ có nặng, có xa có gần, tùy vào thời tiết nhân duyên, mà sẽ thọ quả báo trước sau.
Nếu như có người tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, biết chắc việc thiện ác đều có quả báo, nên biết người đó có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ, nghiệp nhẹ tiêu trừ.
Nếu như người nào gặp được các bậc phước điền, hoặc thiện tri thức, tu thiện, tu đạo, người đó có thể chuyển quả báo nặng đời sau thành quả báo nhẹ đời này.
Giả như có người có đủ ác nghiệp của Cõi dục giới, nếu như đắc quả A Na Hàm, có thể chuyển các quả báo đời sau thành quả báo đời này. Chứng quả A La Hán, cũng giống như vậy.
Thiện nam tử! Người trí nếu có thể tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, người đó có thể diệt trừ nghiệp ác cực nặng, giống như thuốc A Già Đà, chú thuật và bửu bối trừ độc, phá trừ các loại chất độc. Nếu tạo tội nhẹ, lúc đầu khởi phương tiện, nghiệp còn nhẹ, đến lúc đã thành, nghiệp thành nặng, do vì người đó không biết tu thân, giới, tâm, tuệ, cho nên khiến nghiệp nhẹ trở thành nặng.
Chúng sinh, hoặc tạo một nghiệp, hai nghiệp, nhẫn đến nhiều nghiệp, có lúc tạo nghiệp đầy đủ, có lúc tạo nghiệp không đầy đủ. Nếu trước đó toan tính xếp đặt, sau đó thi hành, gọi là nghiệp đầy đủ. Nếu trước đó không khởi niệm, thốt nhiên gặp cảnh mà tạo nghiệp, thì gọi là không đầy đủ.
Tạo nghiệp không đầy đủ, là tạo nghiệp xong quả báo không định.
Tạo nghiệp đầy đủ, là tạo nghiệp xong, nhất định sẽ bị quả báo. Lại nữa, tạo nghiệp không đầy đủ, thì quả báo tuy nhất định, thời gian thọ báo không nhất định. Còn tạo nghiệp đầy đủ, thì quả báo và thời gian đều nhất định.
Tạo nghiệp không đầy đủ, là tạo nghiệp xong, lại tu tập trì giới, chánh kiến.
Tạo nghiệp đầy đủ, là tạo nghiệp xong, lại còn phá giới, tà kiến.
Tạo nghiệp không đầy đủ, là tạo nghiệp xong, phát tâm tin nhân quả.
Tạo nghiệp đầy đủ, là tạo nghiệp xong, lại còn không tin nhân quả.
Tạo nghiệp không đầy đủ, là lúc làm ác, có những người lành vây quanh ngăn cản.
Tạo nghiệp đầy đủ, là lúc làm ác, có những kẻ ác vây quanh tán thán, trợ giúp.
Lại nữa, tạo nghiệp không đầy đủ, là tuy làm các điều ác, nhưng vẫn được sanh vào loài người thọ báo.
Tạo nghiệp đầy đủ, là trong cõi người tạo ác, sinh vào địa ngục thọ báo.
Lại nữa, tạo nghiệp không đầy đủ, là tạo nghiệp xong, lại khởi tâm chánh niệm.
Tạo nghiệp đầy đủ, là tạo nghiệp xong, không có tâm chánh niệm. Lại nữa, tạo nghiệp không đầy đủ, là lúc tạo nghiệp, ba thời sinh tâm hối hận.
Tạo nghiệp đầy đủ, là lúc tạo nghiệp, ba thời đều không có tâm hối hận. Các trường hợp tạo nghiệp thiện cũng giống như những điều vừa nói trên. Nhân vì tạo nghiệp đầy đủ, cho nên tạo nghiệp nhỏ gặt quả báo lớn, hoặc tạo nghiệp lớn gặt quả báo nhỏ.
Một ý niệm tạo thành thân người, sau khi có thân bèn có vô lượng ý niệm. Ý niệm đầu tiên tạo thành thân người, phải là ý niệm thiện. Sau khi tạo thành thân, thọ hai thứ quả báo, thiện và bất thiện. Trường hợp thân Trời cũng giống như thân người.
Chúng sinh địa ngục là do ý niệm ác tạo thành thân. Sau khi có thân, chỉ toàn thọ quả báo bất thiện. Ngạ quỷ, súc sanh, cũng do ý niệm ác tạo thành thân. Sau khi có thân, thọ hai loại quả báo thiện và bất thiện.
Trung ấm thân thiện, ác, cũng do ý niệm thiện, ác tạo thành, và cũng thọ hai loại quả báo thiện và bất thiện.
Từ lúc trong thai cho đến lúc già, cùng thọ hai loại quả báo, thiện và bất thiện.
Cho nên trong Kinh nói có bốn loại nghiệp: Nghiệp đen thọ quả báo đen, nghiệp trắng thọ quả báo trắng, nghiệp tạp thọ quả báo tạp, nghiệp không đen không trắng không thọ quả báo.
Nghiệp đen thọ quả báo đen, tức là cõi địa ngục.
Nghiệp trắng thọ quả báo trắng, tức là Cõi Trời Sắc Giới.
Nghiệp tạp thọ quả báo tạp, tức là Cõi Trời Dục Giới, cõi người, súc sanh, ngạ quỷ.
Nghiệp không trắng không đen không thọ quả báo, tức là nghiệp vô lậu.
Thiện nam tử! Người nào không hiểu rõ nghiệp duyên như trên, sẽ vô lượng đời bị trôi lăn trong sinh tử.
Vì sao?
Những người không hiểu rõ nghiệp nhân duyên này, tuy sinh lên Cõi Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, thọ mạng tám vạn kiếp, sau khi phước hết, vẫn sẽ bị đọa vào ba đường ác.
Thiện nam tử! Trong các sự tạo tác, không có gì hơn ý niệm. Ý niệm tạo thành phiền não, phiền não tạo thành nghiệp, nghiệp tạo thành thân. Do nhân duyên tham, mà được nhan sắc mặn mà, âm thanh tao nhã, dáng điệu đoan trang. Do nhân duyên sân, mà có dung mạo thô kệch, âm thanh hung ác, cử chỉ thô lỗ. Trường hợp tâm si, cũng giống như tâm sân.
Vô lượng Thế Giới, một trăm ba mươi sáu địa ngục, vô lượng súc sanh, vô lượng ngạ quỷ, đều do nghiệp tạo thành. Cõi Người, Cõi Trời cũng giống như vậy. Vô lượng chúng sanh chứng được quả giải thoát, cũng nhân nơi nghiệp.
Thiện nam tử! Mười đường thiện có ba điều: Ngăn chặn phiền não, sinh khởi tâm lành, tăng trưởng giới pháp.
Như thuốc giải độc có ba loại: Thuốc A Già Đà, thần chú, chân ngôn.
Nếu như có người khéo tu hạnh không buông lung, đầy đủ chánh niệm, phân biệt được thiện ác, nên biết người đó chắc chắn tu được mười nghiệp thiện. Nếu như thường hay buông lung, không có tâm hổ thẹn và lòng tin, nên biết người đó chắc chắn sẽ tạo mười nghiệp ác.
Mười nghiệp này, cũng có ba phần: Khởi phương tiện, căn bản, đã thành.
Nếu như có người siêng năng lễ lạy, cúng dường Cha Mẹ, Sư Trưởng, Hòa Thượng, các bậc có đức hạnh, hỏi han chào đón, lời nói nhỏ nhẹ, đây gọi là phương tiện. Nếu như sau đó thường thường nghĩ đến việc đã làm, vui mừng không hối tiếc, đây gọi là đã thành. Lúc đang làm thì chuyên tâm chú ý, đây gọi là căn bản.
Thiện nam tử! Mười nghiệp đạo này lại có ba bậc: Thượng, trung và hạ. Hoặc giả, phương tiện thuộc bậc thượng, căn bản thuộc bậc trung, đã thành thuộc bậc hạ. Hoặc giả, phương tiện bậc trung, căn bản bậc hạ, đã thành bậc thượng. Hoặc giả, phương tiện bậc hạ, căn bản bậc thượng, đã thành bậc trung.
Mười nghiệp đạo này, có ba pháp vây quanh.
hoặc là: Không tham, không sân, không si.
Hoặc là: Tham sân si.
Mười nghiệp đạo có hai loại: Cộng giới hành, và bất cộng giới hành.
Xả giới có sáu trường hợp: Lúc đoạn căn lành, lúc biến thành nhị hình, lúc xả thọ mạng, lúc thọ ác giới, lúc phát nguyện xả giới, lúc xả thân Cõi Dục Giới.
Hoặc có người nói: Lúc Phật Pháp Diệt Tận, sẽ mất giới thể.
Điều này không đúng!
Vì sao?
Sau khi thọ giới sẽ không bị mất giới thể, còn lúc chưa thọ giới thì không được giới thể. Đoạn trừ nghiệp ác của thân khẩu ý, gọi là giới giới. Bốn Cõi Thiền Sắc Giới, và bốn Cõi Thiền vị đáo, gọi là định giới. Bốn Cõi Thiền Sắc Giới, và Cõi Sơ Thiền vị đáo, gọi là vô lậu giới. Bỏ thân rồi, đến đời sau không còn làm ác, gọi là vô tác giới.
Giữ gìn các căn, tu tâm chánh niệm, trong các việc thấy, nghe, hay, biết, đối với các trần cảnh: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không sinh tâm buông lung, gọi là nhiếp căn giới.
Do nhân duyên gì mà được gọi là giới?
Giới gọi là chế phục. Vì có thể chế phục tất cả các pháp bất thiện, nên được gọi là chế phục. Lại nữa, giới còn có tên là chật hẹp. Tuy có pháp ác, bổn tính của giới không dung chứa điều ác, cho nên gọi là chật hẹp. Lại nữa, giới còn có tên là mát mẽ, vì ngăn chặn sự nóng bức của phiền não không cho xâm nhập, nên gọi là mát mẽ.
Lại nữa, giới còn có tên là lên, vì có thể lên Cõi Trời, nhẫn đến đạo vô thượng, cho nên gọi là lên. Lại nữa, giới còn có tên là học, học điều phục tâm, trí huệ và các căn, cho nên gọi là học.
Thiện nam tử! Hoặc có người đầy đủ một giới, nghĩa là giới Ba la đề mộc xoa. Hoặc đầy đủ hai giới, nghĩa là thêm định cộng giới.
Hoặc đầy đủ ba giới, nghĩa là thêm vô lậu giới. Hoặc đầy đủ bốn giới, nghĩa là thêm nhiếp căn giới.
Hoặc đầy đủ năm giới, nghĩa là thêm vô tác giới.
Thiện nam tử! Giới ba la đề mộc xoa, chỉ ở hiện tại mới đắc được giới thể, còn định cộng giới, trong ba đời đều được giới thể.
Thiện nam tử! Nếu như có người lúc muốn thọ giới, chí tâm quán sát tội lỗi của nẻo sinh tử, công đức của sự giải thoát, tin tưởng vui mừng, người đó sẽ được hai giới tác và vô tác. Giới này tùy thọ mạng dài ngắn, sống lâu thì được giới thể dài, đoản mệnh thì được giới thể ngắn.
Vô tác giới này, do ba nhân duyên xả: Ít tu tập các pháp thiện, tâm thường phóng dật, lập nguyện không bền chắc.
Không xả giới cũng có ba nhân duyên: Có bổn nguyện, kiên quyết làm nghiệp thiện, nhất tâm không buông lung.
Thiện nam tử! Ngoài mười nghiệp lành, mười nghiệp ác, thiện giới và ác giới ra, còn có nghiệp mà giới không nhiếp thu, tức là pháp thiện, ác. Các pháp thiện ác này cũng có tác nghiệp và vô tác nghiệp. Có người đầy đủ tác nghiệp và vô tác nghiệp.
Nếu như trong niệm hiện tại đang làm việc thiện chưa xả bỏ, thì đầy đủ tác nghiệp và vô tác nghiệp. Đến niệm kế tiếp, thì thành tựu tác nghiệp và vô tác nghiệp của quá khứ, tác nghiệp đã trở thành quá khứ, chỉ còn lại vô tác nghiệp mà không còn tác nghiệp.
Nếu có người được giới thể, tuy làm điều ác, người đó hiện đời thành tựu hai pháp: Pháp ác có tác nghiệp, pháp thiện có vô tác nghiệp.
Tác nghiệp và vô tác nghiệp này, do hai nhân duyên bị xả: Đồ bố thí đã bị dùng hết, tâm xả bỏ việc làm thiện.
Tác nghiệp, trong hai đời thành tựu: Quá khứ, hiện tại, còn vô tác nghiệp thì trong ba đời đều thành tựu.
Định cộng giới do hai nhân duyên xả: Lúc thoái thất đạo tâm, lúc đoạn dứt căn lành.
Lại có ba lúc xả định cộng giới: Lúc mệnh chung, lúc thoái thất đạo tâm, lúc sanh lên cõi trên.
Vô lậu giới có ba lúc xả: Lúc thoái thất đạo tâm, lúc chuyển từ độn căn sang lợi căn, lúc chứng quả bậc trên.
Lúc sinh lên Cõi Trời thì nghiệp đạo của tâm thiện của ba cõi dưới mất, còn khi đoạn dứt thiện căn, thì nghiệp thiện của thân khẩu ý cùng lúc đều bị mất.
Thiện nam tử! Người nào đắc được cụ túc giới, định cộng giới, vô lậu giới, nhiếp căn giới, người đó hiểu rõ mười nghiệp đạo.
Thiện nam tử! Nhân vì mười nghiệp đạo mà thọ mạng của chúng sinh có tăng có giảm. Giảm, nghĩa là lúc thọ mạng còn mười năm. Tăng, nghĩa là được thọ mạng vô lượng. Châu Uất Đan Việt thọ mạng cố định là một ngàn năm, châu Nam Thiệm Bộ này thọ mạng trăm năm, hai châu Đông và Tây, thọ mạng hai trăm năm mươi năm. Nếu ở châu này thọ mạng vô lượng, thì ở hai châu đó cũng thọ mạng vô lượng.
Trời Tứ Thiên Vương thọ đến chín vạn năm, nhưng thọ mạng không nhất định, giống như ba Châu Nam, Đông và Bắc.
Trời Đao Lợi thọ đến một ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Trời Diệm Ma thọ đến ba ngàn sáu trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Trời Đâu Suất thọ đến bảy ngàn hai trăm vạn năm, trừ các bậc hậu thân Bồ Tát ra, tất cả các vị Trời khác, thọ mạng cũng không nhất định.
Trời Hóa Lạc thọ đến một vạn bốn trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Trời Tha Hóa Tư Tại thọ đến hai vạn tám trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Tha Hóa Tự Tại dài bằng thời gian một ngày một đêm của nhiệt địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến hai vạn tám ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Hóa Lạc dài bằng thời gian một ngày một đêm của đại thanh địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến một vạn bốn ngàn bốn trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Đâu Suất dài bằng một ngày một đêm của tiểu thanh địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến bảy ngàn hai trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Diệm Ma dài bằng một ngày một đêm của chúng hợp địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến ba ngàn sáu trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Đao Lợi dài bằng một ngày một đêm của hắc thằng địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến một ngàn tám trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của Trời Tứ Thiên Vương dài bằng một ngày một đêm của hoạt địa ngục. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, địa ngục đó thọ đến chín trăm vạn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
A tỳ địa ngục thọ mạng một đại kiếp, đại nhiệt địa ngục thọ mạng nửa đại kiếp, chỉ có hai nơi này là thọ mạng nhất định.
Năm mươi năm ở cõi người dài bằng một ngày một đêm của cõi ngạ quỷ. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, cõi ngạ quỷ thọ đến năm ngàn năm, thọ mạng cũng không nhất định.
Trong Cõi Súc Sanh, ngoại trừ Rồng Nan đà Bà nan đà, còn các loài khác, thọ mạng cũng không nhất định.
Một năm của A tỳ địa ngục dài bằng một ngày một đêm của Trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ. Như vậy, ba mươi ngày làm một tháng, mười hai tháng làm một năm, Cõi Trời đó thọ mạng tám vạn đại kiếp. Trời Vô sở hữu xứ thọ mạng sáu vạn đại kiếp, Trời Thức vô biên xứ thọ mạng bốn vạn đại kiếp, Trời Không vô biên xứ thọ mạng hai vạn đại kiếp.
Nếu có người chỉ còn rất ít phiền não, lại tham đắm không định, nên biết người đó sẽ sanh lên bốn Cõi Vô Sắc.
Từ lúc loài người thọ mạng mười năm, tăng gia đến khi loài người thọ mạng tám vạn năm, lại từ thọ mạng tám vạn năm giảm xuống thọ mạng mười năm, tăng giảm như vậy mười tám lần thì gọi là một trung kiếp.
Ba lần tiểu tai đói kém, ba lần tiểu tai tật bệnh, một lần tiểu tai đao binh, thì gọi là một tiểu kiếp. Qua năm lần thủy tai và hỏa tai, thì có một phong tai, qua năm lần phong tai thì gọi là một đại kiếp.
Lúc châu Diêm Phù Đề khởi kiếp đao binh, thì người ở hai châu Đông và Tây tạm thời khởi tâm sân hận. Lúc châu Diêm Phù Đề khởi kiếp tật bệnh, thì người ở hai châu kia hơi bị bệnh đau đầu, sức khỏe cũng hơi suy kém. Lúc châu Diêm Phù Đề khởi kiếp đói kém, thì người ở hai châu kia thường tưởng nghĩ đến thức ăn. Châu Uất Đan Việt hoàn toàn không có những tai ách như vậy.
Do nhân duyên không sát hại nên được thọ mạng dài lâu, do nhân duyên trộm cắp nên thọ mạng giảm sút.
Có hai loại kiếp: Kiếp thủy, kiếp hỏa. Lúc kiếp hỏa phát khởi, chúng sinh địa ngục, nếu quả báo đã hết, đều được ra khỏi địa ngục, nếu như quả báo chưa hết, sẽ thác sanh vào các địa ngục ở phương khác. Nếu như tám địa ngục lớn ở Cõi này không còn chúng sanh, thì gọi là chúng sanh thoát ly địa ngục.
Tất cả chúng sanh trong bốn biển lớn, nếu nghiệp báo đã hết, đều được thoát ly, còn nếu nghiệp báo chưa hết, sẽ sanh và các biển lớn ở phương khác. Nếu trong biển không còn một chúng sanh nào, gọi là được thoát ly.
Từ mặt đất của Cõi Diêm Phù Đề thẳng xuống khoảng năm trăm do tuần, có thành của Vua Diêm Vương, châu vi rộng bảy vạn năm ngàn do tuần. Nếu như trong thành, nghiệp báo của chúng sanh ngạ quỷ đã hết, tất cả đều được ra khỏi, còn nếu nghiệp báo chưa hết, sẽ sanh vào thành Diêm Vương ở phương khác. Nếu như trong thành không còn một chúng sanh nào, gọi là được thoát ly.
Lúc đó, có một người nhờ nhân duyên nội tâm, đắc được Sơ Thiền, sau khi chứng đắc, bèn lớn tiếng kêu rằng: Sơ Thiền tịch tĩnh, Sơ Thiền tịch tĩnh! Mọi người nghe xong, liền tự tư duy, sau đó tất cả đều đắc được Sơ Thiền, bèn xả thân người sinh lên Sơ Thiền.
Lúc đó, trong Cõi Sơ Thiền, lại có một người, nhờ nhân duyên nội tâm, tu đắc Nhị Thiền, sau khi chứng đắc, bèn lớn tiếng kêu rằng: Nhị Thiền tịch tĩnh, Nhị Thiền tịch tĩnh! Mọi người nghe xong, liền tự tư duy, sau đó tất cả đều đắc được Nhị Thiền, bèn xả thân Sơ Thiền sanh lên Nhị Thiền.
Lúc đó, từ địa ngục A Tỳ cho đến Sơ Thiền đều trống không, không còn một chúng sanh.
Thiện nam tử! Phía ngoài của bốn châu có núi Do Càn Đà, trong đó có bảy mặt trời. Chúng sanh do nhân duyên phước đức nên chỉ có một mặt trời xuất hiện, và nhờ đó mà được mùa màng cây cối. Đến lúc kiếp hỏa, bảy mặt trời đồng thời xuất hiện, thiêu rụi tất cả, từ cây lúa hoa quả, núi sông đất đá, núi Tu Di, nhẫn đến Cõi Sơ Thiền.
Lúc đó, chúng sanh Cõi Nhị Thiền thấy cảnh hỏa tai, bèn sinh lòng lo sợ.
Các vị Trời Nhị Thiền sinh trước bèn bảo các vị Trời mới sinh lên: Các ông đừng sợ, chúng tôi đã từng thấy cảnh hỏa tai này, chỉ đến Cõi Sơ Thiền là ngừng, không lan đến cõi này.
Từ lúc chúng sanh thọ mười tuổi tăng lên cho đến tám vạn tuổi, rồi từ tám vạn tuổi giảm xuống cho đến mười tuổi, trải qua quảng thời gian như vậy, sức nóng của kiếp hỏa vẫn chưa dứt, lúc đó, từ Cõi Sơ Thiền trung gian giáng xuống mưa lớn.
Lại trải qua một khoảng thời gian thọ mạng loài người một lần tăng một lần giảm, do nhân duyên hành nghiệp của chúng sinh, phía dưới của Thế Giới này xuất hiện bảy tầng gió và mây để giữ nước mưa này lại. Lúc đó, mưa tạnh, trên mặt nước sinh ra một lớp màng, giống như chất bơ.
Giữa bốn châu, núi Tu Di từ từ xuất hiện, trong nước tự nhiên có đầy đủ tất cả mọi loại hạt giống. Lúc đó, ở Cõi Nhị Thiền có một chúng sinh thọ mạng ngắn, phước hết, do nghiệp lực bèn sinh xuống thế gian, thọ mạng dài lâu, trên thân phát ra ánh sáng.
Sống lâu một mình, tâm sinh phiền muộn, bèn nghĩ rằng: Ta sống một mình đã lâu, nếu ta có phước, nguyện có người sanh đến đây làm bạn với ta. Lúc khởi tâm niệm đó, ở Cõi Nhị Thiền có chúng sinh phước mỏng mạng chung, do nhân duyên nghiệp lực cũng sinh xuống thế gian.
Người đó thấy có người mới đến, lòng sinh vui mừng, tự nghĩ rằng: Người đó là do ta hóa sinh, ta có uy quyền đối với người đó.
Người mới đến cũng nghĩ rằng: Ta do người ấy sinh ra, người ấy biến hóa ra ta, có uy lực đối với ta. Do nhân duyên này, chúng sinh phát khởi ý tưởng ngã kiến.
Thiện nam tử! Ấm, giới, nhập v.v... Thế Giới chúng sinh, Thế Giới quốc độ, đều là do nhân duyên mười nghiệp mà hiện hữu.
Thiện nam tử!
Bồ Tát có hai hạng:
Một là tại gia.
Hai là xuất gia.
Bồ Tát xuất gia có thể quán sát mười nghiệp đạo như vậy, điều này không khó. Bồ Tát tại gia, quán sát mười nghiệp đạo như vậy, điều này mới khó.
Vì sao?
Vì người tại gia bị nhiều ác duyên ràng buộc.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba