Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ Phật - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hội tập: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Khương Tăng Khải, Đời Tào Ngụy

PHẬT THUYẾT KINH

VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT

Hội tập: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Khương Tăng Khải, Đời Tào Ngụy  

PHẦN HAI  

Này A Nan!

Tỳ Kheo Pháp Tạng ở chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương và giữa đại chúng, Chư Thiên, Ma, Phạm, Long Thần Bát Bộ mà phát hoằng thệ ấy. Sau khi lập thệ rồi, Ngài chuyên chí trang nghiêm Tịnh Độ tốt đẹp rộng lớn thù thắng hơn cả, không suy không biến đổi.

Trong thời gian bất khả tư nghị triệu tải kiếp lâu xa, Ngài tích chứa vô lượng đức hạnh Bồ Tát, chẳng sanh dục giác, sân giác, hại giác, chẳng khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, chẳng trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thành tựu nhẫn lực chẳng kể những sự khổ, thiểu dục tri túc không có tham sân si, chánh định thường vắng lặng.

Trí huệ vô ngại, không có tâm hư ngụy siểm khúc, hòa nhan ái ngữ hỏi thăm trước, dũng mãnh tinh tiến chí nguyện không mỏi nhàm chuyên cầu lấy pháp thanh bạch, đem ân huệ ban cho quần sanh được lợi ích, dùng đại trang nghiêm đầy đủ những công hạnh, khiến các chúng sanh thành tựu công đức, an trụ nơi pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi.

Quán các pháp như huyễn như hóa, rời xa lời thô ác hại mình hại người, mình người đồng hại, tu tập lời lành lợi mình lợi người, mình người đồng lợi, bỏ nước thôi vu dứt bỏ tài sắc, tự làm sáu môn Ba la mật cũng dạy người cùng làm, trong vô ương số kiếp tích công chứa đức, tùy sanh ở chỗ nào theo ý muốn, có vô lượng kho báu tự nhiên phát hiện.

Giáo hóa an lập vô số chúng sanh an trụ nơi đạo Vô Thượng Chánh Giác, hoặc làm Trưởng Giả Cư Sĩ họ quý dòng sang, hoặc làm Quốc Vương Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc làm Thiên vương ở sáu Cõi Trời Dục Giới nhẫn đến làm Phạm Vương, thường đem tứ sự cúng dường cung kính tất cả Chư Phật, Tỳ Kheo Pháp Tạng có những công đức như vậy chẳng thể kể hết.

Miệng Ngài hơi thơm như hoa sen xanh, lỗ lông trên thân tiết hơi thơm chiên đàn, hơi thơm này xông khắp vô lượng Thế Giới. Dung sắc Ngài đoan chánh đủ những tướng tốt. Tay Ngài thường xuất sanh những châu báu vô tận, những là y phục, thức ăn uống, hoa báu đẹp, hương quý thơm, bảo cái, tràng phan những đồ trang nghiêm. Những sự như vậy hơn hẳn hàng Thiên Nhân, với tất cả pháp đều được tự tại.

Ngài A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Pháp Tạng Bồ Tát đã thành Phật và nhập diệt rồi hay hiện nay vẫn còn, hay là Ngài chưa thành Phật?

Ðức Phật phán: Này A Nan! Pháp Tạng Bồ Tát đã thành Phật, nay hiện ở tại Tây Phương cách đây mười muôn ức cõi, hiệu là Vô Lượng Thọ. Thế Giới của Ngài tên là An Lạc.

Ngài A Nan lại thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Ðức Phật ấy thành đạo đến nay đã được bao lâu?

Ðức Phật phán: Này A Nan! Ngài thành Phật đến nay được mười kiếp.

Cõi nước của Đức Phật ấy, tự nhiên Thất Bảo: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hiệp làm thành đất rộng lớn vô hạn. Bảy báu ấy xen lẫn nhau chói sáng đẹp lạ trang nghiêm thanh tịnh hơn cả những tinh túy châu bảo của tất cả Thế Giới. Thất bảo ấy như thất bảo của cung Trời thứ sáu.

Lại Quốc Độ ấy không có núi Tu Di, núi Kim Cương, núi Thiết Vi, tất cả các núi, cũng không có biển lớn, biển nhỏ, sông ngòi hang giếng. Do thần lực của Phật, ai muốn thấy thì được thấy, Quốc Độ ấy cũng không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không có bốn mùa xuân hạ thu đông. Chẳng lạnh chẳng nóng, thường ôn hòa điều thích.

Ngài A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu Quốc Độ ấy không có núi Tu Di, thì Trời Tứ Thiên Vương và Trời Ðao Lợi ở nơi đâu?

Ðức Phật phán: Này A Nan! Trời Dạ Ma thứ ba lên đến Trời Sắc Cứu Cánh đều nương ở đâu?

Ngài A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Hành nghiệp và quả báo chẳng thể nghĩ bàn.

Ðức Phật phán: Này A Nan! Hành nghiệp và quả báo chẳng thể nghĩ bàn, Thế Giới của Chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Sức lành công đức của chúng sanh ấy ở đấy hành nghiệp nên được như vậy.

Ngài A Nan thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi vốn chẳng nghi pháp ấy, chỉ vì chúng sanh đời sau, muốn trừ lòng nghi ngờ của họ nên tôi hỏi Đức Phật về nghĩa ấy.

Ðức Phật phán: Này A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, quang minh của Chư Phật chẳng bằng.

Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm Thế Giới, ngàn Thế Giới, nhẫn chiếu đến chiếu suốt hằng sa Thế Giới Chư Phật ở phương Ðông, chín phương kia cũng vậy. Còn Chư Phật khác, hoặc có Phật quang chiếu bảy thước, hoặc chiếu một do tuần, hai ba bốn năm do tuần, gấp bội như vậy cho đến hoặc có Phật quang chiếu một cõi nước Phật.

Vì thế nên Đức Phật Vô Lượng Thọ hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðối Quang Phật, Viêm Vương Ngại Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỉ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Ðoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật và Siêu Nhựt Nguyệt Quang Phật.

Có chúng sanh nào gặp được quang minh ấy thì tiêu trừ tham sân si, thân ý nhu nhuyến, hớn hở vui mừng tâm lành phát sanh.

Nếu là kẻ ở tam đồ chỗ rất khổ thấy được quang minh ấy thì khổ sở thôi dứt không còn, sau khi mạng chung đều được thoát khỏi.

Quang minh của Đức Phật Vô Lượng Thọ sáng rỡ chiếu đến Quốc Độ của Chư Phật mười phương, không cõi nước nào chẳng chiếu thấu. Chẳng riêng gì ta hôm nay khen quang minh của Ngài, mà tất cả Chư Phật, chúng Bồ Tát, Thanh Văn và Duyên Giác đều cũng ca ngợi như vậy.

Nếu có chúng sanh nào nghe oai thần công đức của quang minh Phật Vô Lượng Thọ rồi ngày đêm khen nói chí tâm chẳng ngớt, thì tùy ý họ muốn được sanh về Quốc Độ của Đức Phật ấy, được chúng Bồ Tát, Thanh Văn đồng khen ngợi công đức của họ, đến lúc tối hậu, khi họ thành Phật, Bồ Tát khen quang minh của họ cũng như vậy.

Ðức Phật phán tiếp: Ta nói oai thần quang minh vòi vọi kỳ diệu của Đức Phật Vô Lượng Thọ cả ngày đêm suốt một kiếp cũng chưa hết được.

Lại này A Nan! Ðức Phật Vô Lượng Thọ thọ mạng dài lâu chẳng nói kể được. Ông biết không, giả sử vô lượng chúng sanh ở trong Thế Giới mười phương đều được thân người và đều làm cho thành tựu bậc Thanh Văn, Duyên Giác đồng hội họp thiền định nhất tâm hết sức trí huệ của họ trải năm ngàn muôn kiếp cùng suy tính số năm kiếp thọ mạng dài lâu của Đức Phật ấy cũng chẳng biết cùng tận được.

Chúng Bồ Tát, Thanh Văn và hàng Thiên Nhân ở Quốc Độ An Lạc ấy thọ mạng dài lâu cũng như vậy, chẳng phải tính đếm hay dùng thí dụ mà biết được.

Chúng Thanh Văn và Bồ Tát ở cõi ấy, số đông vô lượng chẳng thể kể nói được. Chúng Thánh ấy có trí huệ thông đạt oai lực tự tại, có thể trong bàn tay cầm lấy tất cả Thế Giới.

Này A Nan! Pháp Hội ban sơ của Đức Vô Lượng Thọ Phật, chúng Thanh Văn số đông chẳng nói kể được, chúng Bồ Tát cũng vậy.

Như ông Ðại Mục kiền liên, trăm ngàn muôn ức vô lượng vô số người, trong thời gian vô sô na do tha kiếp mãi đến diệt độ, cùng nhau đồng tính kể, vẫn chẳng thể biết rõ số ấy nhiều ít.

Ví như biển lớn sâu rộng vô lượng, giả sử có người chia một sợi lông ra làm trăm phần, lấy một phần lông ấy chấm lấy một giọt nước.

Này A Nan! Ý ông nghĩ sao?

Giọt nước được chấm lấy ấy sánh với biển lớn kia thì thế nào?

Bạch Đức Thế Tôn! Giọt nước được chấm lấy ấy đem sánh nhiều ít với dung lượng của biển lớn kia, thì chẳng phải tính đếm ngôn từ hay thí dụ mà biết được.

Này A Nan! Như số người Ðại Mục Kiền Liên, trong trăm ngàn muôn ức na do tha kiếp hội ban sơ kia, số được biết như giọt nước, còn số chẳng biết như nước biển lớn.

Lại này A Nan! Trong cõi nước An Lạc, những cây bảy báu đầy khắp cả nước: Những cây vàng, cây bạc, cây lưu ly, cây pha lê, cây san hô, cây mã não, cây xa cừ.

Hoặc có những cây hai thứ báu, ba thứ báu, nhẫn đến bảy thứ báu hiệp chung làm thành.

Hoặc có cây vàng, lá bông và trái bạc.

Hoặc có cây bạc, lá bông và trái vàng.

Hoặc có cây lưu ly, lá bông và trái pha lê.

Hoặc có cây thủy tinh, lá bông và trái lưu ly.

Hoặc có cây san hô, lá bông và trái mã não.

Hoặc có cây mã não, lá bông và trái lưu ly.

Hoặc có cây xa cừ, lá bông và trái bằng các báu khác.

Hoặc có cây báu: Gốc tử kim, thân bạch ngân, nhánh lưu ly, cành thủy tinh, lá san hô, bông mã não, trái xa cừ.

Hoặc có cây báu: Gốc bạch ngân, thân lưu ly, nhánh thủy tinh, cành san hô, lá mã não, bông xa cừ, trái tử kim.

Hoặc có cây báu: Gốc lưu ly, thân thủy tinh, nhánh san hô, cành mã não, lá xa cừ, bông tử kim, trái bạch ngân.

Hoặc có cây báu: gốc thủy tinh, thân san hô, nhánh mã não, cành xa cừ, lá tử kim, bông bạch ngân, trái lưu ly.

Hoặc có cây báu: Gốc san hô, thân mã não, nhánh xa cừ, cành tử kim, lá bạch ngân, bông lưu ly, trái thủy tinh.

Hoặc có cây báu: Gốc mã não, thân xa cừ, nhánh tử kim, cành bạch ngân, lá lưu ly, bông thủy tinh, trái san hô.

Hoặc có cây báu: gốc xa cừ, thân tử kim, nhánh bạch ngân, cành lưu ly, lá thủy tinh, bông san hô, trái mã não. Những cây báu ấy, hàng hàng gặp nhau, thân thân trông nhau, nhánh nhánh chuẩn nhau, lá lá hướng nhau, bông bông thuận nhau, trái trái tương đương, màu sắc xinh đẹp chói sáng chẳng thể nhìn thấy xiết hết được. Gió mát luôn thổi đến phát ra năm âm thanh cung thương vi diệu tự nhiên hòa nhau.

Lại còn cây Đạo Tràng của Đức Vô Lượng Thọ Phật cao bốn trăm vạn dặm. Gốc cây Đạo Tràng ấy chu vi năm ngàn do tuần, nhánh lá rợp bốn phía hai mươi vạn dặm.

Cây ấy do tất cả những thứ báu tự nhiên hiệp thành, trang nghiêm với Vua châu báu, nguyệt quang ma ni trì hải luân bảo. Quanh khắp trong các cành cây, thòng rũ những chuỗi ngọc trăm ngàn muôn màu biến dị nhiều cách, vô lượng quang minh chiếu sáng vô lượng.

Lưới báu trân diệu giăng che trên cây. Tất cả sự trang nghiêm theo đúng lúc mà hiện. Gió nhẹ hơi động thổi qua các cây báu diễn xuất vô lượng âm thanh nói pháp vi diệu, âm thanh ấy vang đến khắp Quốc Độ của Chư Phật.

Ai tai nghe âm thanh ấy thì được thâm pháp nhẫn trụ bậc bất thối chuyển đến thành Phật Đạo, nhĩ căn trong suốt chẳng bị bệnh khổ. Ai mắt thấy, mũi biết, lưỡi hay, thân chạm, tâm rõ âm thanh quang minh ấy thì đều được thâm pháp nhẫn trụ bậc bất thối chuyển đến thành Phật Đạo, sáu căn trong suốt không có những bệnh khổ.

Này A Nan! Nếu hàng Thiên Nhân ở nước An Lạc thấy cây Đạo Tràng ấy thì được ba pháp nhẫn:

Một là âm hưởng nhẫn.

Hai là nhu thuận nhẫn.

Ba là vô sanh pháp nhẫn.

Những sự ấy là đều do sức oai thần của Đức Vô Lượng Thọ Phật, cũng là do sức bổn nguyện, sức nguyện đầy đủ, sức nguyện sáng tỏ, sức nguyện kiên cố rốt ráo của Đức Vô Lượng Thọ Phật vậy.

Này A Nan! Ðế Vương trong đời có trăm ngàn âm nhạc, từ Chuyển Luân Thánh Vương nhẫn đến cõi Trời thứ sáu Ðại Tự Tại Thiên, âm nhạc tuần tự hơn nhau ngàn ức muôn lần. Muôn thứ âm nhạc trên Trời Ðại Tự Tại chẳng bằng một thứ âm thanh nơi những cây bảy báu ở nước An Lạc của Đức Vô Lượng Thọ Phật, âm thanh này còn hơn ngàn ức lần.

Cõi nước An Lạc cũng có muôn thứ tự nhiên âm nhạc. Tiếng nhạc ấy không tiếng nào chẳng phải là tiếng pháp trong trẻo rõ ràng vi diệu hòa nhã, là đệ nhất trong những âm thanh ở các Thế Giới mười phương.

Ở nước An Lạc, những giảng đường, Tinh Xá, Cung Điện, Lâu Đài đều toàn bảy báu trang nghiêm tự nhiên hóa thành. Lại còn có chơn châu, minh nguyệt châu, châu ma ni, và các châu báu làm thành dây hoa giăng che phía trên nhà.

Bốn phía nhà có những ao tắm bằng bảy báu hoặc rộng mười do tuần hoặc rộng hai mươi, ba mươi, nhẫn đến hoặc rộng trăm ngàn do tuần, ngang rộng sâu cạn đều riêng một thứ. Trong ao, nước bát công đức lặng đầy trong thơm, mùi vị như cam lộ.

Ao hoàng kim thì đáy trải cát bạch ngân.

Ao bạch ngân thì đáy trải cát hoàng kim.

Ao thủy tinh thì đáy trải cát lưu ly.

Ao lưu ly thì đáy trải cát thủy tinh.

Ao san hô thì đáy trải cát hổ phách.

Ao hổ phách thì đáy trải cát san hô.

Ao xa cừ thì đáy trải cát mã não.

Ao mã não thì đáy trải cát xa cừ.

Ao bạch ngọc thì đáy trải cát tử kim.

Ao tử kim thì đáy trải cát bạch ngọc.

Hoặc có ao hai báu, ba báu, nhẫn đến hoặc có ao bảy báu chuyển đổi hiệp thành.

Trên bờ những ao tắm ấy, có cây chiên đàn hoa lá rũ rợp mùi thơm khắp nơi. Những hoa sen xanh, những hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng Cõi Trời màu nào ánh sáng màu ấy đẹp sáng che trên mặt nước.

Chúng Bồ Tát, Thanh Văn và Trời, người nước ấy lúc vào ao báu, nếu ý muốn nước ngập bàn chân, thì nước ngập bàn chân, ý muốn nước ngập gối thì nước ngập gối, ý muốn nước đến lưng thì nước đến lưng, ý muốn nước đến cổ thì nước đến cổ, ý muốn nước xối trên thân thì nước liền tự nhiên xối trên thân, ý muốn nước trở lại như cũ thì nước trở lại như cũ, điều hòa ấm mát tự nhiên theo đúng ý muốn của người tắm.

Tắm xong, thân thể thơ thới, tinh thần cởi mở, phiền não tiêu trừ trong sạch sáng suốt nhẹ nhàng như là không có thân.

Các báu ở đáy ao chói suốt sâu bao nhiêu cũng chiếu thấu lên trên.

Sóng gợn lăn tăn an tường lan đi chậm rãi không mau không chậm, tự nhiên vang lên vô lượng âm thanh vi diệu, tùy theo người đáng nên nghe thế nào thì đều được nghe:

Hoặc nghe tiếng niệm Phật, hoặc nghe tiếng diệu pháp, hoặc nghe tiếng ca ngợi Bồ Tát Tỳ Kheo Tăng, hoặc nghe tiếng tịch tịnh, hoặc nghe tiếng không vô ngã, hoặc nghe tiếng đại từ bi, hoặc nghe tiếng Ba La Mật, tiếng thập lực, tiếng vô úy, tiếng pháp bất cộng, tiếng thần thông, tiếng trí huệ, tiếng vô sở tác, tiếng bất sanh bất diệt, tiếng vô sanh nhẫn, cho đến tiếng cam lộ quán đảnh, và những tiếng diệu pháp khác.

Những âm thanh như vậy đến xứng theo ý người nghe làm cho vui mừng vô lượng, thuận theo nghĩa ly dục thanh tịnh chơn thật tịch diệt, thuận theo Tam Bảo, lực, vô úy, pháp bất cộng, thuận theo đạo sở hành của các bậc Bồ Tát, Thanh Văn.

Nước An Lạc ấy không có tên tam đồ khổ nạn, chỉ có âm thanh vui thích tự nhiên, vì thế nên nước ấy được tên là An Lạc.

Này A Nan! Nơi Quốc Độ An Lạc của Đức Vô Lượng Thọ Phật, những người sanh về đó có đủ sắc thân thanh tịnh, các âm thanh vi diệu, thần thông công đức như vậy. Cung điện của họ ở, những thứ y phục, uống ăn, hoa hương và đồ trang nghiêm đều như là những vật ở cung Trời Ðại Tự Tại thứ sáu.

Người nước ấy muốn ăn, chén bát bảy báu tự nhiên hiện ra, những là chén bát bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chơn châu đều theo đúng ý muốn mà hiện đến, thức uống ăn trăm vị thơm ngon tự nhiên đầy trong chén bát ấy.

Dầu cho những thức uống ăn như vậy mà không có ai ăn. Chỉ thấy sắc ngửi mùi ý cho là ăn thì liền tự nhiên no đủ, thân tâm nhu nhuyến không hề tham luyến. Xong rồi tất cả biến mất, đến giờ lại hiện ra.

Này A Nan! Cõi nước của Đức Phật ấy thanh tịnh an ổn khoái lạc vi diệu kế đạo vô vi Niết Bàn.

Trời, người, Thanh Văn và Bồ Tát ở nước ấy trí huệ cao minh, thần thông tự tại, đều đồng một thân hình như nhau không có tướng khác lạ, chỉ vì thuận theo các nước phương khác mà có tên là Trời, người.

Dung mạo của người nước ấy đoan chánh hơn hẳn thế gian, nhan sắc vi diệu chẳng phải Trời, chẳng phải người, đều bẩm thọ thân hình tự nhiên hư vô tột bậc.

Này A Nan! Như ở thế gian này, người ăn mày nghèo cùng tật nguyền đứng cạnh Ðế Vương, hình trạng dung mạo của họ có giống nhau không?

Bạch Đức Thế Tôn! Người ăn mày ấy đứng bên Ðế Vương thì xấu xí trăm ngàn muôn ức lần không gì ví dụ được.

Tại sao vậy?

Vì người ăn mày nghèo cùng rất ty tiện, áo chẳng che được thân, ăn chẳng no được bụng, đói lạnh khốn khổ mất cả sanh lý. Ðó là do đời trước họ chẳng trồng cội đức, giữ của chẳng bố thí, càng giàu càng bỏn sẻn, chỉ muốn được không, tham cầu không chán, chẳng tin làm lành, phạm nhiều sự ác chứa bằng núi.

Sau khi chết, tài sản tiêu tán. Cả đời khổ thân chứa nhóm rồi vì của mà rầu lo. Với mình vô ích, luống làm sở hữu cho kẻ khác. Không điều lành để nhờ, không phước đức để nương. Vì thế nên sau khi chết đọa vào ác đạo mãi mãi chịu khổ. Hết tội được sanh ra làm người hạ tiện ngu si xấu xí.

Còn Ðế Vương tôn quý trong loài người là do đời trước làm phước đức mà được: Thương người bố thí, nhân ái giúp đỡ, chánh tín làm lành không gây tội làm hại. Vì thế nên sau khi chết do phước đức mà họ được sanh lên Trời hưởng nhiều vui sướng. Nay họ sanh làm người ở ngôi Vua chúa tôn quý, nghi dung đoan chánh được mọi người kính trọng, mặc đẹp ăn ngon, tùy ý hưởng thọ. Vì phước đức mà được như vậy.

Này A Nan! Ông nói rất phải. Ðế Vương ấy dầu tôn quý xinh đẹp nhưng sánh với Chuyển Luân Thánh Vương thì lại xấu xí không khác gì người ăn mày kia ở cạnh Ðế Vương.

Chuyển Luân Thánh Vương nghi dung rất đẹp đệ nhất ở nhân gian đem sánh với Ðao Lợi Thiên Vương thì lại kém hơn trăm ngàn vạn ức lần.

Ðem thân Thiên Ðế sánh với thân Ðệ Lục Thiên Vương cũng lại thua cả vạn ức lần. Ðem thân Ðệ Lục Thiên Vương sánh với thân hình xinh đẹp của người nước An Lạc của Đức Vô Lượng Thọ Phật cũng lại không bằng, trăm ngàn muôn ức chẳng thể tính kể được.

Này A Nan! Ở nước An Lạc, Trời người có những y phục, uống ăn, hoa hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, âm thanh vi diệu, cung điện, nhà cửa, lâu đài đều cân xứng theo thân hình cao thấp lớn nhỏ của họ. Hoặc một báu, hai báu, nhẫn đến vô lượng thứ báu tùy theo ý họ muốn mà hiện đến.

Nước ấy lại có gấm lụa vi diệu trải trên đất báu, Trời người nước ấy đi trên đó.

Nước An Lạc ấy được giăng che với vô lượng màng lưới báu bằng chỉ vàng xỏ chơn châu và trăm ngàn thứ châu báu trân diệu đẹp lạ xen lẫn trang nghiêm. Bốn phía thòng rũ những cái linh báu. Màu sắc, ánh sáng rất mực nghiêm lệ.

Gió công đức tự nhiên thổi động nhẹ. Gió đó điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng, ấm mát dịu dàng thổi đến màng lưới báu và những cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi diệu, thoảng phất muôn thứ hương thơm công đức ấm áp. Ai được nghe thì phiền não trần lao tự nhiên chẳng phát khởi. Gió chạm đến thân thì đều được khoái lạc như Tỳ Kheo nhập diệt tận định.

Lại gió thổi hoa rơi khắp mọi nơi trong nước ấy, theo màu hoa có thứ lớp chẳng tạp loạn. Những hoa ấy mềm dịu chói sáng hơi thơm ngào ngạt. Chân đi giẫm lên hoa lún xuống bốn tấc, vừa dở chân hoa trở lại như cũ. Việc dùng của hoa đã xong, đất tự nứt ra, hoa theo đó ẩn mất sạch hết không còn sót. Tùy theo thời tiết, gió thổi rải hoa rơi trải mặt đất báu ngày đêm sáu lần như vậy.

Lại có những hoa sen báu khắp cả nước ấy. Mỗi đóa hoa sen báu có trăm ngàn ức cánh, vô lượng màu sắc chói sáng. Hoa sắc xanh ánh sáng xanh, hoa sắc trắng ánh sáng trắng, vành đỏ tím huyền, màu nào sáng ấy rực rỡ hơn cả mặt trời, mặt trăng.

Trong mỗi đóa hoa sen phát ra ba mươi sáu trăm ngàn ức tia sáng, trong mỗi tia sáng hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân màu vàng tử kim đủ những tướng tốt. Mỗi Đức Phật lại phóng trăm ngàn ánh sáng khắp vì mười phương mà nói pháp vi diệu. Chư Phật ấy đều gầy dựng vô lượng chúng sanh ở nơi chánh đạo.

Này A Nan! Có chúng sanh nào, sanh về cõi nước An Lạc ấy thì đều ở bậc chánh định tụ cả.

Tại sao vậy?

Vì nước ấy không có hạng tà tụ và bất định tụ. Hằng sa Chư Phật Như Lai mười phương đồng khen ngợi oai thần công đức bất khả tư nghị của Đức Vô Lượng Thọ Phật.

Có những chúng sanh nghe danh hiệu Đức Phật ấy, lòng tin vui mừng nhẫn đến phát một niệm chí tâm hồi hướng nguyện cầu sanh về nước ấy, thì liền được Vãng Sanh ở bậc bất thối chuyển, chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.

Này A Nan! Chúng sanh ở mười phương, những người và Chư Thiên nguyện cầu sanh về nước an lạc của Đức Vô Lượng Thọ Phật có ba hạng: Hạng thượng phẩm là những người bỏ nhà lìa ái dục mà làm Sa Môn, phát tâm bồ đề, chuyên một mật niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu các công đức, nguyện sanh về nước ấy.

Lúc chúng sanh này lâm chung, Đức Vô Lượng Thọ Phật cùng hàng Thánh Chúng hiện ra trước người ấy, liền theo Đức Phật sanh về nước An Lạc, tự nhiên hóa sanh từ trong hoa sen thất bảo, ở bậc bất thối chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại.

Vì thế nên, này A Nan! Có ai muốn hiện đời được thấy Đức Vô Lượng Thọ Phật thì phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề tu những công đức nguyện sanh về nước An Lạc.

Này A Nan! Hạng trung phẩm là những người và Chư Thiên ở các Thế Giới mười phương, có ai chí tâm nguyện sanh về nước ấy, nhưng phải phát tâm vô thượng bồ đề chuyên một mặt niệm Vô Lượng Thọ Phật, làm lành hoặc ít hoặc nhiều, giữ gìn giới Bát Quan Trai, xây dựng Tháp Tượng, trai tăng, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương, dùng đây để hồi hướng nguyện sanh về nước An Lạc.

Lúc người này lâm chung, đức Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện thân ra đủ tướng tốt và quang minh như chơn Phật cùng với Thánh Chúng đến trước người ấy, liền theo đức hóa Phật sanh về nước An Lạc ở bậc bất thối chuyển. Công đức trí huệ kế bậc thượng phẩm.

Này A Nan! Hạng hạ phẩm là có những người và Chư Thiên ở các Thế Giới mười phương chí tâm muốn sanh về nước An Lạc, giả sử chẳng làm được các công đức, họ phải phát tâm Vô Thượng Bồ Đề, một mặt chuyên tâm niệm Vô Lượng Thọ Phật cho đến mười niệm nguyện sanh nước An Lạc, hoặc nghe pháp Ðại Thừa vui mừng tin ưa chẳng sanh nghi hoặc niệm Vô Lượng Thọ Phật cho đến một niệm, dùng tâm chí thành nguyện sanh nước An Lạc.

Người ấy lúc lâm chung chiêm bao thấy Đức Vô Lượng Thọ Phật cũng được Vãng Sanh, công đức trí huệ kế bậc trung phẩm.

Này A Nan! Ðức Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực. Vô lượng vô biên bất khả tư nghị Chư Phật Như Lai ở các Thế Giới mười phương, không Đức Phật nào chẳng khen ngợi Vô Lượng Thọ Phật.

Hằng hà sa Phật Quốc ở phương Ðông kia có vô lượng vô biên chúng Bồ Tát thảy đều đến chỗ Đức Vô Lượng Thọ Phật để cung kính cúng dường Đức Phật ấy và chúng Bồ Tát, Thanh Văn, rồi nghe thọ Kinh pháp tuyên bá giáo hóa. Chín phương khác cũng như vậy.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn nói Kệ tụng rằng:

Phương Ðông các Phật quốc,

Số nhiều như hằng sa,

Chúng Bồ Tát nước ấy,

Ðến lạy Vô Lượng Phật.

Ba phương và bốn hướng,

Thượng hạ cũng như vậy,

Chúng Bồ Tát nước ấy,

Ðến lạy Vô Lượng Phật.

Tất cả chúng Bồ Tát,

Ðều mang hoa Trời đẹp,

Hương Trời, y vô giá,

Cúng dường Vô Lượng Phật.

Ðều cùng tấu nhạc Trời,

Phát ra tiếng hòa nhã,

Ca ngợi đấng Tối Thắng,

Cúng dường Vô Lượng Phật.

Thấu suốt thần thông huệ,

Chứng nhập thâm pháp môn,

Ðầy đủ tạng công đức,

Diệu trí chẳng ai bằng.

Huệ nhựt soi thế gian,

Tiêu trừ mây sanh tử,

Cung kính nhiễu ba vòng,

Cúi lạy Đấng Vô Thượng.

Thấy nước ấy nghiêm tịnh,

Vi diệu khó nghĩ bàn,

Nên phát tâm vô lượng,

Nguyện nước tôi cũng vậy.

Liền đó Vô Lượng Phật,

Hoan hỷ miệng mỉm cười,

Miệng phóng vô số quang,

Chiếu khắp mười phương cõi.

Quay về vòng quanh thân,

Ba vòng vào đảnh Phật,

Tất cả chúng Trời, Người,

Ðều vui mừng hớn hở.

Quan Thế Âm Bồ Tát,

Chỉnh y cúi đầu hỏi,

Cớ sao Đức Phật cười,

Ngưỡng mong Phật nói ý?

Tiếng Phật như sấm động,

Bát âm vang tiếng diệu,

Sẽ thọ ký Bồ Tát,

Ông lắng nghe ta nói.

Bồ Tát mười phương đến,

Ta đều biết họ muốn,

Nguyện cầu nước nghiêm tịnh,

Thọ ký sẽ thành Phật.

Giác ngộ tất cả pháp,

Ðường như mộng, ảo, vang,

Ðầy đủ những diệu nguyện,

Tất thành nước như vậy.

Biết pháp như điện, ảnh,

Trọn vẹn đạo Bồ Tát,

Ðủ các cội công đức,

Thọ ký sẽ thành Phật.

Thông đạt các pháp tánh,

Tất cả không, vô ngã,

Chuyên cầu nước Phật tịnh,

Tất thành nước như vậy.

Chư Phật bảo Bồ Tát,

Phải đến Phật vô lượng,

Nghe pháp thích vâng làm,

Mau được chỗ thanh tịnh.

Ðến nước nghiêm tịnh ấy,

Thì mau được thần thông,

Ở chỗ Phật vô lượng,

Thọ ký thành Chánh Giác.

Phật ấy có bổn nguyện,

Nghe danh muốn vãng sanh,

Ðều được sanh nước ấy,

Ở bậc bất thối chuyển,

Bồ Tát phát chí nguyện.

Muốn nước tôi không khác,

Nhớ độ khắp tất cả,

Danh vang khắp mười phương,

Phụng sự ức Như Lai.

Biến hóa đến các nước,

Cung kính cúng dường Phật,

Trở về nước An Dưỡng.

Người nào không tâm lành,

Chẳng được nghe Kinh này,

Người có giới thanh tịnh,

Mới được nghe chánh pháp.

Ðã từng thấy Chư Phật,

Thì tin được việc này,

Cung kính nghe phụng hành,

Hớn hở rất vui mừng.

Kiêu mạn, ngu, giải đãi,

Khí tin được pháp này,

Ðời trước thấy Chư Phật,

Thích nghe giáo pháp này.

Thanh Văn hoặc Bồ Tát,

Chẳng biết được tâm Phật,

Ví như người sanh manh,

Muốn dẫn đường người khác.

Biển trí huệ của Phật,

Sâu rộng không bờ đáy,

Nhị Thừa chẳng lường được,

Chỉ riêng Phật sáng tỏ.

Giả sử tất cả người,

Ðều đắc đạo cả thảy,

Huệ nhãn biết bổn không,

Ức kiếp suy Phật trí.

Tận lực cố giảng nói,

Vẫn chẳng biết được rõ,

Trí Phật không ngằn mé,

Tột thanh tịnh như vậy.

Thọ mạng rất khó được,

Ðời Phật cũng khó gặp,

Có tín huệ cũng khó,

Nếu nghe siêng năng cầu.

Nghe pháp được chẳng quên,

Cung kính rất vui mừng,

Là bạn lành của ta,

Vì vậy phải phát tâm.

Giàu lửa khắp Thế Giới,

Quyết vượt qua nghe pháp,

Ðể được thành Phật Đạo,

Rộng độ dòng sanh tử.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần