Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Ba Mươi - Phẩm Lạc Vui - Tập Hai
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM BA MƯƠI
PHẨM LẠC VUI
TẬP HAI
Nhập định nhất tâm, không bị các tà ma làm lay động. Giáo pháp do Hiền Thánh dạy, miệt mài tu tập không thể lìa bỏ. Những điều người trí tu tập không phải là điều kẻ ngu luận bàn được.
Cho nên nói:
Ưa pháp ngủ yên lành,
Tâm ý thuần thanh tịnh,
Pháp do Hiền Thánh dạy,
Được người trí ưa thích.
Nếu người tâm ưa thiền,
Thì cũng ưa vắng lặng
Cũng ưa bốn ý chỉ
Cùng với bảy giác ý
Cùng bốn thần túc kia
Tám phẩm đạo Hiền Thánh.
Nếu người tâm ưa thiền thì cũng ưa vắng lặng: Người tu hành sở dĩ ưa thích thiền định là muốn từ cõi Niết Bàn vô dư mà bước vào diệt độ. Không sinh, không diệt.
Cho nên nói: Nếu người tâm ưa thiền thì cũng ưa vắng lặng.
Cũng ưa bốn ý dứt, cùng với bảy giác ý: Ngăn dứt kết sử không cho sinh khởi gọi là ý dứt. Có sự giác ngộ nên gọi là giác ý.
Cho nên nói: Cũng ưa bốn ý dứt, cùng với bảy giác ý.
Cùng bốn thần túc kia, tám phẩm đạo Hiền Thánh: Pháp thần túc cũng cắt đứt được kết sử. Đối với pháp hiện tại được an lạc vô vi, tu tập tám phẩm đạo Hiền Thánh. Đối với pháp hiện tại cũng cắt đứt kết sử, được an vui lợi ích tốt đẹp.
Cho nên nói:
Cùng bốn thần túc kia,
Tám phẩm đạo Hiền Thánh.
Khéo vui với nắm cơm
Khéo vui với pháp phục
Khéo vui với kinh hành
Vui ở trong rừng núi.
Khéo vui với nắm cơm, khéo vui với pháp phục: Như người tu hành đã được trí tuệ, dứt bỏ tất cả, phân biệt rõ ý tưởng về ăn, ý không còn mê đắm. Khi ăn, món ngon hay dở đều không sinh tâm khen chê. Pháp phục ngay thẳng, không trái với cách phục sức do bậc Tiên Thánh chế ra.
Cho nên nói: Khéo vui với nắm cơm, khéo vui với pháp phục.
Khéo vui với kinh hành, vui ở trong rừng núi: Như trong Khế Kinh của Phật có nói: Người đi kinh hành được năm công đức.
Năm công đức gồm:
1. Có khả năng đi xa được.
2. Thức ăn tự nhiên tiêu hóa.
3. Mau tiêu hóa thức ăn.
4. Không bệnh.
5. Người đi kinh hành mau được thiền định.
Người tu đạo được pháp nhiệm mầu bốn đế chân như, nghe pháp, tâm ngộ, liền vào chốn núi sâu vắng bóng người, để tu tập các thiền định, ở trong Thế Giới Niết Bàn vô dư mà nhập Niết Bàn.
Cho nên nói: Khéo vui với Kinh hành, vui ở trong rừng núi.
Đã đến nơi an vui
Hiện pháp được vô vi
Bởi vượt các lo sợ
Các đắm nhiễm thế gian.
Đã đến nơi an vui, hiện pháp được vô vi: Như người tu hành tự vui với pháp chân thật trong Thế Giới Niết Bàn hữu dư. Lần hồi đến được cảnh giới Niết Bàn dứt hết phiền não.
Cho nên nói: Đã đến nơi an vui, hiện pháp được vô vi.
Bởi vượt các lo sợ, các đắm nhiễm thế gian: Đã thấy được đạo, vượt các khổ nạn, vượt khỏi các đắm nhiễm thế gian, ra ngoài ba cõi. Làm ruộng phước an lành cho chúng sinh.
Cho nên nói:
Bởi vượt các lo sợ,
Các đắm nhiễm thế gian.
Khéo vui với niệm đãi
Khéo quán sát các pháp
Đẹp thay đời không hại
Nuôi dưỡng các chúng sinh.
Vui đời không ái dục
Vượt các tâm đắm nhiễm
Dứt tâm kiêu mạn mình
Đây là vui bậc nhất.
Đức Như Lai giáng thần vào cung vua, Ngài quán sát thế gian là vô thường, muôn vật như huyễn. Cho nên Ngài xả bỏ ngôi vua vào núi sâu học đạo, tu khổ hạnh nhiều năm, ngồi dưới cây Bồ Đề thành Đẳng Chánh Giác.
Rồi sau đó, bảy đêm bảy ngày Ngài nhìn cây Bồ Đề không nháy mắt. Khi ấy Như Lai liền đứng dậy đi đến chỗ rồng đầu đàn Văn Lân, tới cung điện của rồng này và nói bài kệ trên. Nghe kệ, tâm ý rồng được mở tỏ.
Mở mắt thấy thân Như Lai, chua xót gạt lệ, tự nhớ kiếp trước hèn mọn, nên nói bài kệ:
Khéo vui với niệm đãi
Khéo quán sát các pháp
Đẹp thay đời không hại
Nuôi dưỡng các chúng sinh.
Vui đời không ái dục
Vượt các tâm đắm nhiễm
Dứt tâm kiêu mạn mình
Đó là vui bậc nhất.
Người già giữ giới, vui
Có tin đầy đủ vui
Vui phân biệt nghĩa thú
Vui không làm điều ác.
Người già giữ giới vui: Người học đạo, dù tuổi già nhưng không nề khổ nhọc, không có tâm lui sụt, dù tuổi còn trẻ nhưng mắt thấy vinh hoa ở thế gian lại chán ngán. Đạo ở trong tâm chứ không luận già trẻ, chỉ có tâm cứng cỏi mới đến được đạo.
Nếu có tín tâm thì đến đâu không được?
Cho nên nói: Người già giữ giới vui.
Có tin đầy đủ vui: Người có lòng tin thì bốn việc không làm lay động. Dù có hóa thành thân Phật với ánh sáng rực rỡ, muốn đến dối gạt cũng không thể làm cho thân tâm bị lay động.
Cho nên nói: Có tin đầy đủ vui.
Vui phân biệt nghĩa thú: Người nào nói năng giỏi đều do việc làm đời trước, qua ức, ngàn muôn kiếp mới được biện tài như vậy. Mỗi lời dạy nói ra đều rõ ràng các nghĩa. Mỗi ý nhắm tới đều không mất đầu mối thứ lớp.
Từ ý nghĩa của một câu có thể giảng rộng hằng trăm ngàn nghĩa, không bao giờ có những lời lẽ nào thô tục cho nên nói: Vui phân biệt nghĩa thú.
Vui không làm điều ác: Người không làm điều ác thì sinh lên Cõi Trời, cõi người hưởng phước.
Cho nên nói:
Vui không làm điều ác.
Đời có cha mẹ vui
Nhóm họp hòa cũng vui
Đời có Sa Môn vui
Chí lặng vui cũng vậy.
Đời có cha mẹ vui, nhóm họp hòa cũng vui: Như trong Khế Kinh Phật có nói: Công ân sâu nặng của cha mẹ không thể ghi chép cho hết. Nếu người con hiếu muốn báo ân đó, vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ từ khi sinh ra, đến khi lớn lên đi khắp Trời đất, trải qua trăm ngàn kiếp cũng không thể báo ân cha mẹ dù chỉ một ngày.
Vì sao?
Vì nhờ cha mẹ nuôi lớn thân này, ta mới mở sáu giác quan thấy được cuộc đời. Mẹ nhường khô, nằm ướt, luôn luôn che chở bảo vệ cho con, vì thế nếu người con hiếu muốn báo ân thì trăm ngàn phần cũng chưa được một.
Cho nên nói: Đời có cha mẹ vui, nhóm họp hòa cũng vui.
Đời có Sa Môn vui, chí lặng vui cũng vậy: Xuất gia học đạo, dứt bỏ ân ái, xa lìa gia nghiệp, thường hành ba nghiệp, không mất chí nguyện, lại được trăm ngàn chúng sinh kính mến, nhớ tưởng, thường xuyên cúng dường, cung cấp những món cần dùng. Phạm Chí xuất gia tu hành gian khổ chỉ nhằm cởi bỏ sự trói buộc. Mọi việc làm đều thanh tịnh. Không gây việc ác.
Cho nên nói:
Đời có Sa Môn vui,
Chí lặng vui cũng vậy.
Chư Phật ra đời vui
Nói pháp nhận được vui
Chúng Tăng hòa cũng vui
Hòa thì luôn an vui.
Chư Phật ra đời vui: Như Lai ra đời thật khó được gặp, như hoa Ưu Đàm Bát mấy ngàn muôn kiếp mới nở một lần.
Chúng sinh thấy hoa Ưu Đàm Bát thì cũng vui cả mừng, bảo nhau rằng: Không bao lâu nữa Như Lai ra đời.
Điềm lành đã hiện đâu có sai?
Kinh sách xưa đã có ghi chép rằng: Nếu khi hoa này xuất hiện ra đời thì không bao lâu nữa Như Lai sẽ ra đời. Các Trời, loài người đều vui mừng. Bày đủ các món cúng dường, chiêm ngưỡng hình dung sang rỡ của Như Lai.
Cho nên nói: Chư Phật ra đời vui.
Nói pháp nhận được vui: Đức Phật mới thành đạo, các tướng đầy đủ, bốn mươi chín ngày lặng yên nhập định. Không giảng nói pháp vị cho chúng sinh nghe.
Sau đó, Phạm Thiên thưa thỉnh, Ngài mới giảng nói pháp lành cho bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di và các hàng Trời, Rồng, Kiền Đạp Hòa, A Tu Luân, Chiên Đà La, Ma Hưu Lặc, loài người và chẳng phải loài người, giảng nói pháp lành, chúng sinh nhờ ân đều được cứu giúp.
Cho nên nói: Nói pháp nhận được vui.
Chúng Tăng hòa cũng vui, hòa thì luôn an vui: Chúng không phải là một người, mà là bốn, tám, hoặc đến vô số. Chúng của Như Lai là bậc nhất. Chúng của Như Lai có tứ song, tám bối, mười hai hiền sĩ. Chúng sinh cùng nhau đến cúng dường.
Nếu kính trọng Thánh Chúng thì được phước vô lượng. Bởi ruộng phước này mà sinh ra đạo quả, vừa ngon vừa đẹp, không khô xốp, mọi mong cầu đều toại nguyện. Điều mà các Bậc Thánh quý trọng trên hết chính là Hòa.
Cho nên nói:
Chúng Tăng hòa cũng vui,
Hòa thì luôn an vui.
Giữ giới đầy đủ vui
Học rộng, biết nhiều vui
Thấy bậc chân nhân vui
Bước chân giải thoát vui.
Giữ giới đầy đủ vui: Có các chúng sinh gặp người giữ giới thì thờ phụng cúng dường, thường chiêm ngưỡng, về sau được phước báo, ở yên trong vô vi, vui sướng tự do.
Cho nên nói: Giữ giới đầy đủ vui.
Học rộng, biết nhiều vui: Chúng sinh gặp được người học rộng, biết nhiều, họ tiếp nhận lời dạy của vị ấy, hiểu rõ không bỏ sót danh thân, cú thân, vị thân, nghĩa lý thông đạt, suy tìm các nghĩa, nghe liền tỉnh ngộ, không cần nghe lại lần nữa.
Cho nên nói: Học rộng, biết nhiều vui.
Thấy bậc chân nhân vui, bước đi giải thoát vui: Nếu có chúng sinh trồng cội gốc công đức từ kiếp trước, nay gặp Bậc Hiền Thánh, bậc A La Hán, được định Diệt tận và định vắng lặng, nếu chúng sinh bố thí cho bậc chân nhân ấy thì hiện đời được quả báo tốt, tiền bạc tài sản dồi dào, mong cầu nguyện gì cũng thỏa ý, không có ước muốn nào không đạt kết quả. Họ không bao giờ còn đắm nhiễm các kết sử.
Cho nên nói:
Thấy bậc chân nhân vui,
Bước đi giải thoát vui.
Vui bởi nước trong mát
Vui pháp tài nhóm họp
Vui được trí tuệ sáng
Vui do dứt mạn, tà.
Vui bởi nước trong mát: Như nước sông trong lành mát mẻ, tiếng chảy êm đềm, nước ngon ngọt, không làm hại ai. Người học ưa thích nó nên được đầy đủ nhiều thứ.
Cho nên nói: Vui bởi nước trong mát.
Vui pháp tài nhóm họp: Của cải gom về đúng phép, không trái lý. Do vậy, của ấy không bị huyện quan tịch thâu, không bị trộm cướp chiếm đoạt, không bị nước trôi lửa cháy.
Vì sao?
Vì tài lợi ấy thu được bằng chánh pháp, không phải ép uổng chúng sinh mà tự nhiên được như vậy.
Cho nên nói: Vui pháp tài nhóm họp.
Vui được trí tuệ sáng: Như người học kia được trí tuệ bậc nhất của thế gian nên có khả năng phân biệt tất cả các pháp, vầng trí tuệ ấy phát ra, ai nhận được liền tỉnh ngộ.
Cho nên nói: Vui được trí tuệ sáng.
Vui do dứt mạn, tà: Ai kiêu mạn thì ưa khinh miệt kẻ khác. Từ nhiều kiếp đến nay gieo trồng công đức lành, nhưng không được rốt ráo đều do sinh tâm tức giận.
Cho nên nói:
Vui do dứt mạn, tà.
Vui được thấy Hiền Thánh
Cùng gặp nhau cũng vui
Không sống với kẻ ngu
Cho nên vui mãi mãi.
Vui được thấy Hiền Thánh, cùng gặp nhau cũng vui: Bậc Hiền Thánh đạt đạo đầy đủ, các công đức viên mãn, nhiều kiếp tu học chứa nhóm công hạnh nên được mọi người cung kính. Kính thờ Bậc Hiền Thánh sau được an vui, của cải vô số. Mọi người trong nhà hòa thuận, bà con họ hàng ngày càng đông đảo.
Cho nên nói: Vui được thấy Hiền Thánh, cùng gặp nhau cũng vui. Không sống với kẻ ngu.
Cho nên vui mãi mãi: Người lành tu đức, tìm kiếm bạn lành, thấy bạn xấu thì tìm cách xa lìa.
Vì sao?
Vì bản tính kẻ ác là không bao giờ làm lành. Họ làm cho kẻ khác bi rơi vào chỗ tăm tối, không cho thấy ánh sáng rực rỡ.
Cho nên nói:
Không sống với kẻ ngu.
Cho nên vui mãi mãi.
Không sống với kẻ ngu
Trải qua biết bao ngày
Khó ở chung với họ
Như ghét mà gặp hoài
Ở chung người khôn, dễ
Như gặp gỡ người thân.
Không sống với kẻ ngu, trải qua biết bao ngày: Nếu người tu hành sống với kẻ ngu thì đêm ngày đọa lạc rơi vào sinh tử. Dù ức Phật quá khứ cũng không cứu vớt được.
Cho nên nói: Không sống với kẻ ngu, trải qua biết bao ngày.
Khó ở chung với họ, như ghét mà gặp hoài: Ghét mà phải gặp là khổ nạn, đều do vô minh cả, bởi không theo thầy lành, không ở chung với thiện tri thức.
Cho nên nói: Khó ở chung với họ, như ghét mà gặp hoài.
Ở chung người khôn, dễ, như gặp gỡ người thân: Điều mà người trí tu học chắc chắn cao thượng, nên mọi người trông thấy đều vui mừng. Cười trước, nói sau, vui tươi hòa nhã, trong ngoài hòa thuận không hề tranh chấp.
Cho nên nói:
Ở chung người khôn, dễ,
Như gặp gỡ người thân.
Khó gặp bậc tôn quý
Không uổng việc thác sinh
Nếu sinh vào nơi đâu
Nhà ấy chắc chắn mừng.
Khó gặp bậc tôn quý, không uổng việc thác sinh: Ức ngàn muôn kiếp không thể gặp được. Bậc Tôn quý chính là Phật, Thế Tôn. Nơi Ngài sinh ra là vua cha thanh tịnh, mẹ chân chánh, gia đình giàu có, tài sản vật báu rất nhiều, bảy báu đầy đủ vàng bạc châu báu xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, voi, ngựa, xe, không thiếu thốn thứ gì.
Cho nên nói: Khó gặp bậc tôn quý, không uổng việc thác sinh.
Nếu sinh vào nơi đâu, nhà ấy chắc chắn mừng: Quyến thuộc đầy đủ, sống ở Kinh đô, không phải biên giới.
Cho nên nói:
Nếu sinh vào nơi đâu,
Nhà ấy chắc chắn mừng.
Tất cả được ngủ ngon
Phạm Chí được diệt độ
Không bị dục làm nhiễm
Thoát hẳn mọi ràng buộc.
Dứt hết điều xấu, tốt
Hàng phục phiền não trong
Dứt hẳn, được ngủ ngon
Tâm thức đều trong sáng.
Thuở xưa, sau khi Đức Phật thành đạo không bao lâu, Ngài độ cho năm vị trước, kế đó năm vị bên dòng sông xóm quê, rồi đến mười ba hiền sĩ, ba mươi bảy người trong chúng… cộng chung lúc ấy là sáu mươi mốt đệ tử Phật.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các vị đệ tử: Các vị nên đi giáo hóa khắp nơi, độ người trong Cõi Diêm Phù Lợi này. Ta muốn riêng mình đến bên bờ sông độ ba ông Ca Diếp thầy trò cả thảy ngàn người. Kế độ hai ông Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Kế đến độ Vua Bình Sa, ở vườn trúc Ca Lan Đà thuộc thành Vương Xá.
Khi ấy Trưởng Giả Cấp Cô Độc đến thành La Duyệt hỏi vợ cho con. Ông tạm ngụ nơi nhà ông Trưởng Giả Tạo Đại, gặp lúc các tôi trai, tớ gái trong nhà vị này đang làm việc của mỗi người, có người chẻ củi, đốt lửa nấu thức ăn, có người bày biện chỗ ngồi, trải các tấm thảm. Bấy giờ Trưởng Giả tự mình bày biện một tòa ngồi cao, treo phướn lọng bằng lụa, dầu thơm rưới đất.
Trưởng Giả Cấp Cô Độc hỏi vị Trưởng Giả kia: Hôm nay, nhà ông bày biện tiếp đãi khách quý không phải lễ nhỏ.
Có phải để đón Quốc Vương đến nhà chăng?
Hay là sắp làm đám cưới cho con hay gả con đây?
Xin nói cho tôi được biết.
Chủ nhà trả lời: Hôm nay tôi bày biện các thức ăn ngon, Trời, người không thể lường biết được, cũng không phải để đón vua, các quan đại thần, cũng không phải để cưới dâu hay gả con chi cả, mà tôi bày biện các thức ăn uống thịnh soạn này là để sáng sớm thỉnh Đức Phật và Tỳ Kheo Tăng đến nhà cúng đường.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Bốn Mươi Tám
Phật Thuyết Kinh Trường Bộ - Kinh Cha Li Da
Phật Thuyết Kinh Thánh Trì Thế đà La Ni
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Hai Mươi - Pháp Hội Vô Tận Phục Tạng
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tần đầu Thành
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Năm Mươi Sáu - Phẩm Nguyện Dụ - Phần Hai