Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Hai Mươi Bảy - Phẩm Quán Suy Xét - Tập Ba
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
PHẬT THUYẾT KINH XUẤT DIỆU
Giảng giải: Tôn Giả Pháp Cứu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
PHẨM HAI MƯƠI BẢY
PHẨM QUÁN SUY XÉT
TẬP BA
Đức Thế Tôn bảo Nan Đà: Ông hãy đến đó hỏi sự thật, các thiên nữ sẽ nói cho ông nghe.
Nan Đà vâng lời Đức Phật dạy liền đến chỗ cung điện kia, tình thật hỏi các thiên nữ: Thiên nữ quý cô tự nhiên hưởng phước, với điện đường bằng bảy chất báu, vui chơi năm thứ âm nhạc, chẳng hay chồng quý cô hiện đang ở đâu?
Các thiên nữ đáp: Ngài không biết sao?
Ở Cõi Diêm Phù Lợi, Thành Ca Duy La Kiệt, có người em cùng cha của Đức Phật Thích Ca tên là Nan Đà, sau khi chết sẽ sinh lên Cõi Trời này. Người ấy là chồng của chúng tôi.
Nghe vậy, Nan Đà mừng thầm, người mà thiên nữ nói chính là ta rồi.
Nan Đà liền trở về chỗ Phật, bạch hết việc ấy lên Đức Thế Tôn: Bạch Đức Thế Tôn, các cung điện này và ngọc nữ hầu hạ đều là của con hết.
Đức Phật bảo Nan Đà: Ngươi phải mau tu phạm hạnh thì không bao lâu sẽ sinh lên đây hưởng phước tự nhiên.
Khi ấy Đức Thế Tôn dùng năng lực thần túc, tay dắt Nan Đà xuống dạo chơi ở địa ngục.
Đi ngang qua núi Thiết Vi, thấy có một con khỉ cái mù, Đức Phật bảo Nan Đà rằng: Nàng Tôn Đà Lợi vợ ngươi có giống con khỉ cái mù này chăng?
Nan Đà bạch Phật: Thôi, thôi! Xin Thế Tôn chớ nói lời ấy, đâu thể sánh con khỉ mù này với nàng được?
Bởi Tôn Đà Lợi là cô gái đẹp nhất trong các cô gái đẹp, sáu mươi bốn nghề không nghề nào nàng không biết.
Đức Thế Tôn bảo Nan Đà: So sánh con khỉ cái mù này với Tôn Đà Lợi, rồi so sánh Tôn Đà Lợi với các thiên nữ thì cách xa nhau ngàn muôn lần, không thể dùng thí dụ để so sánh.
Rồi Đức Phật dắt Nan Đà đến địa ngục, chỉ cho ông thấy bao nhiêu cảnh khổ đau, nào tra khảo đánh đập bằng roi gậy, chất độc, nhiều không thể tính kể.
Có tám địa ngục lớn nung nấu người tội. Mỗi địa ngục lớn có mười sáu ngăn nhỏ bao quanh. Núi dao, rừng kiếm, xe lửa, lò than, đốt nướng, chưng nấu khổ đau khó có thể nói hết. Có một cái vạc lớn, ngục tốt đứng chung quanh, lửa cháy phừng phừng, nước sôi sùng sục, nhưng không thấy người tội nào.
Nan Đà bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, chẳng hay vì sao ở các địa ngục kia đều có người tội, còn trong cái vạc to này, lại không thấy người tội?
Đức Phật bảo Nan Đà: Ông hãy tự đến đó hỏi các ngục tốt, họ sẽ nói cho ông nghe lý do.
Nan Đà vâng lời Phật dạy, liền đến hỏi ngục tốt: Vì sao trong cái vạc này không người tội?
Ngục tốt đáp: Ở Cõi Diêm Phù Lợi, con vua Chân Tịnh đã đắc đạo, người em cùng cha với Ngài tên là Nan Đà, là người buông lung, ham mê dâm dục. Tự ỷ mình giàu có, khinh chê mọi người. Sau khi y chết sẽ bị đọa vào vạc to này, trải qua nhiều kiếp mới thoát khỏi. Ông nên biết việc ấy là như vậy.
Nghe vậy, Nan Đà nổi ốc khắp mình, toàn thân run rẩy, mặt biến sắc.
Nan Đà đến chỗ Phật, bạch: Cúi mong Đấng Thiên Nhân Sư che chở ba cõi, nay con thấy việc ấy, lòng rất kinh sợ.
Nan Đà liền ở trước Phật nói bài kệ:
Nay bỏ ngôi Cõi Trời
Không tạo gốc sinh tử
Mong khỏi khổ địa ngục
Xin nói Niết Bàn lặng.
Khi ấy Đức Thế Tôn dần dần nói pháp mầu cho Nan Đà nghe, hãy sống đời vô vi, sẽ đến được Đạo Tràng.
Áo xanh, che lọng trắng
Nhà vua ngồi một xe
Thấy người hết bụi nhơ
Thoát hẳn các trói buộc.
Nhiều người cầu tự quy
Thần sông, núi, cỏ, cây
Vườn hoa và đình thần
Mong thoát các khổ nạn.
Người có tâm lo sợ thì ý mê không tỉnh biết. Gặp chuyện thì cúng kiến van xin, không biết đâu là thật giả.
Thuở xưa, ở nước Nguyệt Chi, có vị vua tên Ác Thiểu, cả thiên hạ đều quy phục ông.
Mẫu hậu dạy vua: Nếu con gặp hiểm nạn lâm nguy thì cẩn thận, chớ đi vào phía trái ngôi Chùa. Phải nhớ đi vào ở phía tay phải, hãy cẩn thận, chớ trái lời mẹ dạy.
Khi ấy, vua Ác Thiểu dẫn binh chúng đi đánh thành Thuần Tây. Chính tay vua cầm gươm giết ba ức người, chưa tới bốn ức người, trong khi quy định là phải đủ năm ức người. Sau đó, vua thua trận, phải cỡi voi chạy trốn. Chợt trông thấy bức hình Phật, ông nhớ lời mẹ dạy, bèn quày voi đi vòng phía tay phải. Quân địch thấy vậy liền rút về nước. Thấy giặc lui, vua liền đuổi theo sát, phá được giặc, trở về.
Nhớ lời Phật dạy, vua liền quy y Phật, là Bậc Tôn Quý, là Bậc Cao Thượng không ai sánh bằng, nếu ta không đi theo phía tay phải thì làm sao phá được giặc.
Cho nên nói:
Nhiều người cầu tự quy,
Thần sông, núi, cỏ cây,
Vườn hoa và đền thần,
Mong thoát các khổ nạn.
Đó chẳng quy y thượng
Thì chẳng được lợi lành
Nếu có người quy y
Không thoát tất cả khổ.
Nếu ai quy y Phật
Quy y Pháp và Tăng
Tu tập pháp Tứ Đế
Thấy biết với trí tuệ.
Nhân khổ, duyên khổ sinh
Nên vượt gốc khổ này
Tám phẩm đạo Thánh Hiền
Dứt hết, được cam lộ.
Đó là quy y thượng
Thì sẽ được lợi lành
Nếu có người quy y
Được thoát tất cả khổ.
Người tu hành chỉ có tín và giới. Khi gốc tin đã có thì không hủy phá giới luật. Nếu ai quy y Tam Bảo thì mọi nguyện đều thành tựu, được Trời, người cúng dường, tự chứng được đạo, hưởng phước nhiều kiếp. Ai không có nơi nương tựa thì giống như cây không có gốc. Nếu có nơi nương tựa thì mọi việc đều kết quả.
Quán, đã quán, sẽ quán
Không quán thì nên quán
Đã quán lại quán nữa
Quán rồi không quán nữa.
Quán là bốn lẽ chắc thật chân như: Khổ, tập, diệt, đạo.
Người tu hành phải quán bốn lẽ chắc thật chân như: Khổ, tập, diệt, đạo. Quán là hiện tại, đã quán là quá khứ, sẽ quán là vị lai, sinh khởi trần lao đều do ba đời, trôi lăn trong sinh tử, không chứng được đạo.
Cho nên nói: Quán, đã quán, sẽ quán.
Không quán thì nên quán: Không quán là không thấy khổ, tập, diệt, đạo. Như vậy, phải quán thật kỹ, xét thật sâu, biết một cách rạch ròi.
Từ đó, không còn thấy bốn lẽ chắc thật chân như: Khổ, tập, diệt, đạo.
Cho nên nói: Không quán thì nên quán.
Đã quán lại quán nữa: Tin tưởng và phân biệt khổ, tập, diệt, đạo. Mỗi món đều suy nghĩ, nghiên cứu ý nghĩa của nó.
Quán rồi không quán nữa: Đã quán đã biết, không còn suy nghĩ nữa.
Cho nên nói:
Không quán thì nên quán,
Quán rồi không quán nữa.
Quán rồi lại quán nữa
Phân biệt bản tính nó
Tính lấy ngày làm đêm
Thân báu hoại, không lâu.
Quán rồi lại quán nữa: Quán có hai thứ: Một là quán tài sản, hai là quán nghĩa bậc nhất. Nếu quán tài sản thì càng tăng them kết sử, còn quán nghĩa bậc nhất thì dứt hết hữu lậu, trở thành vô lậu.
Cho nên nói: Quán rồi lại quán nữa.
Phân biệt bản tính nó: Có những người tánh hạnh khác nhau.
Có nhiều cõi nước nên không phải chỉ có một giáo pháp. Bậc Thánh phân biệt mỗi pháp ấy, có người tâm ý tỏ ngộ, có người tâm ý không tỏ ngộ, có người vừa tỏ ngộ vừa không tỏ ngộ. Tính tình mỗi người khác nhau nên tỉnh ngộ có mau chậm. Thế nên Bậc Thánh dùng đạo dạy bảo, siêng năng tu hành, đêm ngày không biếng trễ.
Cho nên nói: Phân biệt bản tính nó.
Tính lấy ngày làm đêm: Các loài chúng sinh tánh hạnh khác nhau, có người suy nghĩ cội gốc hạnh lành, có người không suy nghĩ cội gốc hạnh lành. Gọi là tính ngày làm đêm.
Thân báu hoại, không lâu: Về tài sản ở thế gian, theo pháp thường ở đời thì suốt ngày gom góp rồi cũng phải hoại diệt, còn tài sản căn lành thì không bao giờ hoại diệt.
Thế nên luật bản nói: Nên đổi thân không quý báy lấy thân quý báu, đổi tài sản không quý báu lấy tài sản quý báu, đổi mạng sống không quý báu lấy mạng sống quý báu.
Cho nên nói:
Thân báu hoại, không lâu.
Quán rồi, không quán nữa
Dù thấy cũng không thấy
Như thấy mà không thấy
Quán mà cũng không thấy.
Quán rồi, không quán nữa: Người tu hành suy nghĩ diệu quán. Người đắc đạo quán sát biết người tu hành ấy, cũng không có diệu quán để suy nghĩ.
Người đắc định có hai loại: Một người được quán, một người không được quán. Lại có bậc Đạo Sư quán sát người tu hành, có người tương ưng với Thánh đế, nếu không suy nghĩ quán sát rộng khắp thì không tương ưng với Thánh đế.
Cho nên nói: Quán rồi, không quán nữa.
Quán mà cũng không thấy: Có nhiều người suy nghĩ tu tập đạo hạnh, lại quán sát những vật ở đời quá khứ lâu xa, có người đạt được, có người không đạt được. Mỗi thứ đều phân biệt sáng tỏ, không lẫn lộn.
Cho nên nói:
Quán mà cũng không thấy.
Thế nào thấy, không thấy?
Sao nói thấy, không thấy?
Vì đâu thấy, không thấy?
Nhờ đâu khởi kiến chấp?
Thế nào thấy, không thấy: Hành nhân tu pháp chấp có, là pháp thường thanh tịnh. Không thấy là không thấy khổ, tập, diệt, đạo.
Cho nên nói: Thấy, không thấy.
Sao nói thấy, không thấy: Người tu hành chỉ thấy có một duyên, có người duyên theo sắc, có người duyên theo sắc, thanh, hương, vị. Có người suy nghĩ, có người không suy nghĩ.
Cho nên nói: Vì sao nói thấy, không thấy.
Vì đâu thấy, không thấy: Như có hai người các hạnh đã đầy đủ, công đức vẹn toàn nên dù sống trong sinh tử nhưng không yếu hèn, tâm muốn dứt bỏ kết sử, không bị trở ngại. Nhưng một người thì tâm ý thiên lệch nên không đạt được rốt ráo. Một người không thấy phiền não để dứt bỏ nó, một người thì không thấy mình đang sống trong vòng sinh tử.
Cho nên nói: Vì đâu thấy, không thấy.
Nhờ đâu khởi kiến chấp: Nhờ pháp Thánh Hiền mà tự thấy nghĩa xuất ly, mọi cầu mong đều đạt kết quả, không có gì trở ngại.
Cho nên nói:
Nhờ đâu khởi kiến chấp.
Nếu như không quán khổ
Thường phải tự quán sâu
Giải thoát cội nguồn khổ
Gọi là quán sáng mầu.
Nếu như không quán khổ: Như người học đạo không thấy khổ, không, vô thường, vô ngã, cũng không phân biệt các hành ấm, nên bị đọa lạc. Tự quán sự nhơ bẩn bất tịnh trong thân, từ đầu cho đến chân, không có một thứ nào đáng ham mê. Ta có ngã về ta, sắc có ngã về sắc, cũng không phân biệt gốc ngọn của sắc.
Cho nên nói: Nếu như không quán khổ, thường phải tự quán sâu.
Giải thoát cội nguồn khổ, gọi là quán sáng mầu: Hiểu rõ nghĩa khổ, không, vô thường, vô ngã. Thân là tai họa, đầy dẫy nhiều thứ bệnh. Người tu hành suy nghĩ, ý không rối loạn, biết rõ nguồn gốc sinh bệnh. Thân sống tạm trên thế gian, họp thành bởi bốn đại, từ vô số kiếp đến nay không thấy được ánh sáng rực rỡ, đó là do ngu si lầm mê trói buộc. Ta nay đã thoát khỏi, không còn gây những nghiệp duyên nữa.
Cho nên nói:
Giải thoát cội nguồn khổ,
Gọi là quán sáng mầu.
Ai khiến kẻ phàm phu
Không thấy gốc các hạnh
Do đó mà quán sát
Xua tối, thấy ánh sáng.
Ai khiến kẻ phàm phu, không thấy gốc các hạnh: Thế gian mờ mịt không thấy ánh sáng rực rỡ là do ai tạo ra. Chúng sinh cứ đi luẩn quẩn không biết được đường chánh. Hiện có khổ về ấm, giới, nhập của thân bốn đại nhưng kẻ ngu thì đắm nhiễm nó, không tin là tai họa.
Họ sinh khởi tà kiến, càng tăng thêm trần lao. Công việc chính của người tu hành là tự quán sát, đêm ngày suy nghĩ dứt bỏ kết sử. Xua tan bóng tối để thấy ánh sáng rực rỡ. Gốc của ánh sang rực rỡ này, không hề có rễ của bóng tối.
Đó là do không biết Phật, không biết Pháp, không biết Tỳ Kheo Tăng, cũng không biết bốn đế chân như: Khổ, tập, diệt, đạo. Không tu hạnh thanh tịnh của cảnh giới.
Cho nên nói: Ai khiến kẻ phàm phu không thấy gốc các hạnh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba