Phật Thuyết Kinh Tăng Già Tra - Phần Mười

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:17 PM

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Nguyệt Bà Thủ Na, Đời Trần

PHẬT THUYẾT

KINH TĂNG GIÀ TRA

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư

Nguyệt Bà Thủ Na, Đời Trần  

PHẦN MƯỜI  

Chuyển Luân Thánh Vương tuy làm chủ bốn phương thiên hạ, nhưng cũng không thoát khỏi sự tự diệt, đến khi đó thì trai gái, vợ con không thể theo được, bảy báu có ra, cũng không mang theo được, vô lượng chúng sinh cũng không ai theo được.

Do vậy, mà không được tự tại trong bốn thiên hạ, một thân làm Vua càng thấy nhiều vô thường. Vì tạo ra nghiệp ác nên bị đọa vào địa ngục Khiếu hoán. Hằng ngày bảy báu thường mang theo, tự do đi khắp thiên hạ, nhưng giờ này thì không biết ở đâu.

Thưa Nhân Giả! Nhân Giả có nghe chúng con nói là mau đến chỗ Phật, vì Phật coi tất cả chúng sinh như con. Chúng con không cha, không mẹ, không anh em thân tộc, tất cả đều không. Phật là cha, Như Lai là mẹ, Phật như mặt trời, mặt trăng soi sáng cho mọi người đi đúng đường thiện. Phật đã cứu chúng sinh thoát khỏi sinh tử, không còn sinh trở lại.

Sông phiền não thật đáng sợ hãi. Nhưng chúng sinh lại cứ chìm đắm trong phiền não, Như Lai cứu ra, không cho trở lại. Như Lai thương xót diễn nói chánh pháp, chỉ con đường vô thượng bồ đề cho con người. Chúng con không ham ăn uống, không ham muốn phú quý ở đời, không cầu sinh Thiên, không sợ đọa vào đường ác, được thân người rồi, chỉ mong thấy Thế Tôn.

Chúng sinh mạng sống ngắn ngủi lưu chuyển vô thường, bởi các nghiệp ác nên tham đắm năm dục, không biết chết đến, dẫu biết chết sẽ đến vẫn không sợ hãi, không nghĩ đến sinh diệt, không biết pháp tế, không tu nghiệp tế, không biết cõi tịch diệt, vô minh làm mờ tâm trí, sinh rồi quay về chết, chết rồi lại sinh.

Như thế mà tâm cũng không nhàm chán, do vậy nhiều kiếp phải chịu khổ, roi vọt đánh đập không sinh nhàm chán, để xa lìa, chỉ khởi lên để cướp đoạt, đến khi ấy phải chịu khổ của địa ngục và sự trói buộc.

Vì nghiệp ác xưa, cho nên khi mạng thức sắp diệt, lại thương xót khóc lóc than: Ai cứu giúp ta?

Vàng bạc của báu đều cho cả, thân làm nô bộc, chịu mọi sai khiến ta đều sẵn sàng làm. Vương vị tự do, ta đều không muốn, không cần của cải mà chỉ mong được sống.

Như vậy đó, thưa Nhân Giả! Chúng con không cần ăn uống. Các Vua ăn uống thoải mái, toàn những món cao lương mỹ vị, nhưng rồi cũng phải chết, Chư Thiên ăn vị cam lồ rồi cũng diệt mất, trăm vị mà Vua thường ham thích đều là không.

Các vị ăn uống, chúng con không cần, chúng con chỉ mong nghe chánh pháp để được lìa khổ, nguyện cắt đứt dây ái phiền não trói buộc, nương tựa vào Thế Tôn để đoạn các trói buộc. Chúng con kính lễ Đại Tiên Thế Tôn, hãy vì các chúng sinh, chưa biết đến danh tự của Nhân Giả, cho nên xin Nhân Giả tự giới thiệu.

Bồ Tát Dược Thượng nói: Thế Giới rộng bao la, danh tự của chúng sinh, sao có thể biết hết?

Các chúng sinh trẻ thưa: Chúng con chỉ xin biết danh tự của nhân giả, danh tự thâm diệu, xin vì chúng con mà nói.

Bồ Tát Dược Thượng đáp: Tên của ta là Dược Thượng, trị bệnh chúng sinh thuốc là tối thượng. Nay ta vì các ngươi mà nói, để các ngươi lìa mọi bệnh hoạn, diệt trừ tất cả bệnh khổ trong Thế Giới. Cơn bệnh lớn nhất của thế gian là tham lam, vậy phải nên trừ diệt gấp. Sân cũng là một cơn bệnh nặng, làm cho chúng sinh vô trí bị lưu chuyển trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Si cũng là cơn bệnh trầm trọng, làm cho chúng sinh thọ khổ, đều phải trừ diệt.

Các chúng sinh trẻ thưa: Nghe diệu pháp này, lìa các nạn khổ. Phàm phu vô trí phải chịu các khổ não, nhưng khi nghe giáo pháp thanh tịnh này, lìa mọi nghiệp ác. Do lìa nghiệp ác, nên không còn sợ đường ác nữa và chóng thấy Như Lai. Nhân Giả cứu tất cả bệnh, là y Vương ban cho thuốc thang trị lành các bệnh khổ.

Nhân Giả hãy mau đến đảnh lễ Như Lai, đem những lời của chúng con, trình lên Như Lai, chỉ có Đức Thế Tôn mới có khả năng trừ bệnh và dập tắt lửa phiền não cho chúng con, lửa dục thiêu thân không thể trừ diệt, chúng con rất khốn khổ, cúi xin Phật thương xót. Thân là một gánh nặng, thật đáng kinh sợ.

Bị ba độc trói buộc, không thể thoát nỗi, tới lui luôn mang theo gánh nặng, không thể xa lìa, không biết cái chết sẽ đến lúc nào, không sinh kinh sợ, không biết đường giải thoát, cũng không biết đến người chỉ nẻo giải thoát. Vì đều do ý ngu si, tự cho rằng không bao giờ chết, thấy cha mẹ chết cũng không sinh sợ hãi.

Các nghiệp phiền não làm rối loạn, tâm ô nhiểm, nên phải lãnh chịu các khổ não thì làm sao mà ăn được?

Do vô minh che lấp tâm chúng con, cho nên mới có khổ như vậy. Thật đáng sợ gánh nặng, tưởng, hành, thọ, si, ái, vô trí lưu chuyển trong các cõi, thế gian vọng sinh không biết giải thoát. Người đời ngu si tắm bằng nước hương thơm, y áo thì dùng loại thượng hạng, ăn uống thượng vị, tai nghe tiếng vui. Rồi bị cuốn theo bởi thú vui đó. Các thứ sắp đẹp ham muốn ngắm xem, tất cả vị ngon đều muốn nếm qua, thân muốn xúc chạm đến sự mềm mại, trơn láng.

Tâm ngu si cho rằng: Hai thân giao hợp là vui.

Thân này ngu độn thì vui chỗ nào?

Mang giày dép đẹp, y phục, ăn uống, những thứ ấy có gì tồn tại lâu dài được đâu. Khi lâm chung, khốn đốn ập đến, lúc đó không có ai cứu, chính mình cũng không tự cứu, y phục đâu có thể cứu ta được. Sinh vào thế gian, giong ruổi như voi ngựa, luôn tạo ra nghiệp ác không cầu giải thoát. Tự mình làm, rồi còn chỉ dạy người khác làm mà không biết quả báo đời sau.

Chúng con trước lúc chết có sinh, nay sinh phải có chết, lo buồn khổ não. Chúng con cũng đã từng chứng kiến sự chết chóc của cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, lo buồn khổ não. Các hành đều không thì người trí làm sao mà sinh vui thích tham đắm.

Không cầu pháp tịch diệt, không cầu pháp lìa sinh tử, đó đều là do tham lam che lấp tâm tánh. Sinh vào trong cõi đời này mà không hành bố thí. Trong tất cả lỗi lầm không gì bằng tâm tham, tham đắm vào pháp thế gian tạo ra nhiều nghiệp hữu lậu, mà không biết tu tập thiền định, giải thoát. Không biết phát đại thệ nguyện thành đạo vô thượng.

Phật là cha mẹ, Phật là người đã chỉ nẻo giải thoát và đã mưa trận mưa lợi ích cho chúng sinh, nhưng chúng sinh ngu si lại không biết hộ pháp. Nếu phát tâm cầu vô thượng bồ đề, mới gọi là hộ pháp. Tất cả hành đều không, của cải cũng không.

Nếu quán ngã không, không còn thọ sinh nữa. Cúi xin Nhân Giả thương xót, đem lời của chúng con, trình lên Đức Phật. Vì các Bồ Tát không có biếng nhác, trái lại còn siêng năng tinh tấn, bỏ ác làm thiện.

Nhân Giả vì chúng sinh mà đến chỗ của Thế Tôn, lễ kính Như Lai và thưa lên như vậy: Thưa Thế Tôn! Biết rằng tất cả các pháp đều không có nghi, các bà con quyến thuộc của ma ác thì Phật đã hàng phục, Đức Như Lai đã đốt lên ngọn đuốc chánh pháp, làm cho chúng sinh được an lạc. Pháp như vậy, có khả năng làm cho con người thành Phật, nhưng chúng con chưa được nghe.

Xin Nhân Giả hãy vì chúng con, mau đến chỗ Phật, chúng con không thấy Như Lai, cũng chưa được độ, mà hễ thấy thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp ấy rồi thì liền được độ.

Khi ấy, Bồ Tát Dược Thượng nói với các chúng sinh trẻ: Các ngươi hãy xem phương trên có những tướng gì?

Nghe Dược Thượng nói thế, các chúng sinh trẻ đều nhìn lên phương trên, thấy năm trăm hóa Phật. Lại thấy ba ngàn đài lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, có lưới bảy báu phủ lên trên, cũng như hoa sen luôn thoảng ra hương thơm.

Các chúng sinh liền hỏi Dược Thượng: Những tòa hoa này là tướng gì?

Dược Thượng đáp: Đó là tòa của các ngươi, vậy các ngươi hãy mau đến chỗ Phật lễ kính Như Lai.

Các chúng sinh trẻ thưa: Chúng con không biết đường đi, không thấy Như Lai.

Vậy thì biết đến đâu, để lễ kính Như Lai?

Dược Thượng bảo: Các ngươi cứ lễ kính. Như Lai Thế Tôn, cũng như bụi trần trong hư không, không có chỗ trụ, chỗ trụ của Như Lai cũng như núi Tu Di. Như Lai ngang bằng núi Tu Di, ngang bằng nước của biển cả. Bồ Tát mười phương, nhiều như số bụi trần, trong tam thiên đại thiên Thế Giới, muốn cầu Phật trụ, cũng không biết tại đâu, Bồ Tát trong mười phương chỉ vọng đến lễ kính.

Các chúng sinh trẻ thưa: Xin Nhân Giả thương xót, làm mãn nguyện của chúng con, tâm của chúng con muốn thấy Phật, để thân gần kính lễ.

Dược Thượng nói: Đức Như Lai không cần hương hoa, chỉ vì nhân của chúng sinh đã tạo mà khiến cho lìa sinh tử. Như vậy, các quyến thuộc của ma không nên tranh luận nhau, nên quy y Phật, nhất định không còn đọa vào cửa chết, mau chóng đạt được Đà La Ni, phát tâm thanh tịnh mong được thấy Phật.

Lúc đó, Đức Thế Tôn dùng tiếng Ca Lăng Tần Già mỉm cười rực rỡ. Từ nơi mặt, phóng ra tám vạn bốn ngàn ánh sáng, soi khắp tam thiên đại thiên Thế Giới, dưới đến mười tám tầng địa ngục, trên đến Cõi Trời A Ca Ni Tra. Ánh sáng ấy, nhiều màu sắc, như xanh, vàng, đỏ, trắng, pha lê.

Các tia sáng như vậy, đều từ mặt Phật phóng ra, chiếu sáng tam thiên đại thiên Thế Giới. Người thấy được ánh sáng này, tất cả đều được an lạc. Ánh sáng ấy, chiếu khắp Thế Giới, hoàn lại chỗ Phật, nhiễu quanh bảy vòng, rồi nhập vào đảnh Phật.

Khi ấy, Bồ Tát Dược Thượng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng lên Phật, bạch: Bạch Thế Tôn! Con có một số vấn đề muốn hỏi, nếu được Thế Tôn cho phép, con mới dám hỏi.

Thế Tôn bảo Dược Thượng: Này thiện nam! Ông cứ tùy ý hỏi, Như Lai sẽ phân biệt, để cho ông được hoan hỷ.

Dược Thượng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ba vạn ức chúng sinh trẻ này, muốn nghe pháp sâu xa vi diệu của Như Lai, cúi xin Như Lai diễn thuyết diệu pháp.

Phật bảo Dược Thượng: Này thiện nam! Nếu người nghe pháp sâu xa vi diệu của Như Lai, sẽ biết được các pháp và đầy đủ tất cả công đức, trụ vào mười địa. Người ấy có khả năng đánh rền trống pháp. Dựng cờ pháp.

Dược Thượng! Ông có thấy đài lớn như vậy không?

Dược Thượng đáp: Con đã thấy thưa Thế Tôn!

Phật bảo: Các chúng sinh trẻ này, nay được ngồi trền đài ấy và chứng tất cả các pháp đầy đủ các thiện căn, đánh rền trống pháp, vô lượng Trời, Người nghe được pháp này rồi, tất cả đều được lợi ích, vô lượng chúng sinh ở địa ngục, nghe pháp này, liền quay về với đường thiện.

Khi nói pháp này, có chín ngàn ức chúng sinh già trong chúng, chứng quả Tu Đà Hoàn.

Này Dược Thượng! Người nghe pháp này, sẽ lìa tất cả khổ và đầy đủ mọi pháp thiện, tất cả đều có khả năng thành tựu được thân Phật.

Dược Thượng! Ông hãy quán nhìn bốn phương các Đại Bồ Tát.

Phật vừa dứt lời, Dược Thượng liền nhìn bốn phương, thấy năm trăm ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát, đang từ phương Đông đến nơi đây. Thấy sáu mươi ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát đang từ phương Nam đến nơi đây. Thấy bảy mươi ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát từ phương Tây đến nơi đây.

Thấy tám mươi ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát đang từ phương Bắc đến nơi đây. Thấy chín mươi ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát đang từ phương dưới đến nơi đây. Thấy một trăm ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát đang, từ phương trên đến nơi đây.

Đến rồi, tất cả đều đứng một bên, phía trước Phật.

Lúc đó, Dược Thượng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con thấy màu vàng, màu đen ở trong hư không, đó là tướng gì?

Phật hỏi lại: Ông không biết chăng?

Dược Thượng thưa: Chỉ có Như Lai mới biết tất cả.

Phật bảo Dược Thượng: Đó là ma ác và quyến thuộc của chúng, muốn đến nơi đây.

Vậy ông có muốn thấy không?

Dược Thượng bạch Phật: Con rất muốn thấy, thưa Thế Tôn! Phật liền làm cho Dược Thượng thấy ma ác.

Thấy rồi, Dược Thượng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì, mà các ma đến nơi đây?

Phật bảo Dược Thượng: Vì bọn ma muốn phá rối pháp tòa này.

Dược Thượng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát Ma Ha Tát này, vì muốn xem các chúng sinh trẻ này thọ vị, nên mới đến đây?

Dược Thượng! Ông thấy các Bồ Tát này, đủ mọi hình sắc, đủ mọi tướng mạo, đủ mọi thần lực không?

Dược Thượng bạch Phật: Dạ vâng! Con đã thấy trăm ngàn ức hằng hà sa Bồ Tát Ma Ha Tát, dùng thần thông tự tại mà đến nơi đây.

Khi Thế Tôn nói pháp này rồi, Bồ Tát Nhất Thiết Dũng, Bồ Tát Dược Thượng, tất cả chúng sinh già, trẻ. Tất cả hàng Trời, Người trong thế gian, A Tu La, Càn Thát Bà nghe Phật dạy, đều hoan hỷ.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần