Phật Thuyết Kinh Bảo Lăng Già A Bạt đa La - Phẩm Hai - Phẩm Nhất Thiết Phật Ngữ Tâm - Phần Bảy

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

BẢO LĂNG GIÀ A BẠT ĐA LA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cầu Na Bạt Đà La, Đời Lưu Tống  

PHẨM HAI

PHẨM NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM  

PHẦN BẢY  

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin vì chúng sanh thuyết Tam Miệu Tam Phật Đà, khiến con và các Đại Bồ Tát đối với tự tánh của Như Lai, khéo tự giác và giác tha.

Phật bảo Đại Huệ: Cho ngươi tùy ý hỏi, ta sẽ tùy sự hỏi của ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác là tác hay chẳng tác?

Là sự ư?

Là nhân ư?

Là tướng ư?

Là sở tướng ư?

Là thuyết ư?

Là sở thuyết ư?

Là giác ư?

Là sở giác ư?

Những từ ngữ như thế là khác hay chẳng khác?

Phật bảo Đại Huệ: Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác đối với những từ ngữ này phi sự cũng phi nhân.

Tại sao?

Vì đều có lỗi.

Đại Huệ! Nếu Như Lai là sự, hoặc tác hoặc vô thường. Nếu nói vô thường thì tất cả sự đều là Như Lai, ta và Chư Phật chẳng cho như thế. Nếu chẳng phải sở tác, là vô sở đắc, pháp phương tiện thành không, đồng như sừng thỏ, như con của Thạch Nữ, vì chẳng có gì cả.

Đại Huệ! Nếu vô sự vô nhân thì phi hữu phi vô. Nếu phi hữu phi vô thì lọt vào tứ cú. Tứ cú là ngôn thuyết của thế gian, nếu lìa tứ cú thì chẳng đọa tứ cú, vì chẳng đọa tứ cú là chứng đắc của bật trí, nghĩa cú của tất cả Như Lai cũng như thế.

Đại Huệ nên biết, như ta sở thuyết, tất cả pháp vô ngã. Nếu biết nghĩa vô ngã là tánh vô ngã. Tất cả pháp có tự tánh, chẳng tha tánh như trâu ngựa.

Đại Huệ! Ví Như con trâu chẳng có tánh ngựa, con ngựa chẳng có tánh trâu. Kỳ thật phi hữu phi vô, nghĩa ấy chẳng phải không có tự tánh.

Như thế, Đại Huệ! Tất cả các pháp chẳng phải không có tự tướng, có tự tướng nhưng vô ngã, chẳng phải phàm phu dùng vọng tưởng có thể biết. Nói tất cả pháp không, vô sanh, vô tự tánh, nên biết nghĩa như trên.

Như Lai nói ngũ ấm chẳng phải khác chẳng phải không khác. Nếu chẳng khác tức là vô thường, nếu khác thì phương tiện thành không. Nếu cho là hai thì phải có khác, như sừng trâu, mỗi mỗi tương tự nên chẳng khác. Có dài ngắn sai biệt nên có khác, tất cả pháp cũng như thế.

Đại Huệ! Như sừng trâu bên phải khác với sừng trâu bên trái, sừng bên trái khác với sừng bên phải, đủ thứ sắc tướng dài, ngắn mỗi mỗi khác nhau cũng như thế.

Đại Huệ! Như Lai nói ấm giới nhập chẳng phải khác hay không khác. Do đó, pháp sở thuyết cuả Như Lai gọi là giải thoát. Nếu Như Lai khác với giải thoát, ắt phải do sắc tướng tạo thành.

Nếu do sắc tướng tạo thành thì vô thường, nếu chẳng khác thì người tu hành được tướng giải thoát không thể phân biệt,mà người tu hành thấy có phân biệt,cho nên chẳng phải khác hay chẳng khác,cũng như trí và nhĩ diệm, chẳng phải khác hay chẳng khác.

Đại Huệ! Nói trí và nhĩ diệm chẳng phải khác hay chẳng khác là phi thường phi vô thường, phi tác phi sở tác, phi hữu vi phi vô vi, phi giác phi sở giác, phi tướng phi sở tướng, phi ấm phi khác với ấm, phi thuyết phi sở thuyết, phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng.

Vì phi nhất phi dị, phi đồng phi chẳng đồng, nên lìa tất cả lượng. Lìa tất cả lượng thì vô ngôn thuyết, vô ngôn thuyết thi vô sanh, vô sanh thì vô diệt thì tịch diệt, tịch diệt là tự tánh Niết Bàn, tự tánh Niết Bàn là vô sự vô nhân, vô sự vô nhân thì chẳng có phan duyên, chẳng có phan duyên thì siêu việt tất cả hư ngụy. Siêu việt tất cả hư ngụy tức là Như Lai, Như Lai tức là Tam Miệu Tam Phật Đà.

Đại Huệ! Tam Miệu Tam Phật Đà của Phật Đà lìa tất cả căn lượng.

Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Pháp lìa chư căn lượng,

Vô sự cũng vô nhân.

Đã lìa giác sở giác,

Cũng lìa tướng sở tướng.

Ấm duyên đồng Chánh Giác,

Nhất dị chẳng thể thấy.

Nếu thật chẳng thể thấy,

Thì làm sao phân biệt?

Phi tác phi bất tác,

Phi sự cũng phi nhân.

Phi ấm phi lìa ấm,

Cũng chẳng có pháp khác.

Chẳng phải có các tánh,

Như vọng tưởng họ thấy.

Mỗi mỗi pháp cũng thế,

Phi hữu cũng phi vô.

Vì hữu nên nói vô,

Vì vô nên nói hữu.

Nếu vô chẳng thể lập,

Thì hữu làm sao có!

Hoặc nơi ngã, phi ngã,

Lưu luyến theo ngôn thuyết.

Chìm đắm nơi nhị biên,

Tự hoại, hoại thế gian.

Tạo lỗi chướng giải thoát,

Tướng thông ta quán sát.

Chẳng báng Đại Đạo Sư,

Ấy gọi là chánh quán.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Thế Tôn sở thuyết Khế Kinh, nói nhiếp thọ bất sanh bất diệt. Thế Tôn cũng nói bất sanh bất diệt là biệt danh của Như Lai.

Taị sao Thế Tôn vì vô tánh mà nói bất sanh bất diệt cho là biệt danh của Như Lai?

Phật bảo Đại Huệ: Ta nói tất cả pháp bất sanh bất diệt là chẳng hiện pháp hữu và vô.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Nếu tất cả pháp bất sanh thì pháp nhiếp thọ bất khả đắc,vì pháp nhiếp thọ bất sanh.

Nếu tất cả pháp bất sanh thì làm sao trong danh tự có pháp?

Cúi xin Phật thuyết rõ.

Phật bảo Đại Huệ: Lành thay! Lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi phân biệt giải thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Ta nói Như Lai chẳng phải vô tánh, cũng chẳng phải bất sanh bất diệt, nhiếp tất cả pháp, cũng chẳng đợi duyên mà bất sanh bất diệt, cũng chẳng phải vô nghĩa.

Đại Huệ! Ta nói ý sanh pháp thân là danh hiệu của Như Lai, nói bất sanh kia, chẳng phải cảnh giới của tất cả ngoại đạo Thanh Văn, Duyên Giác, cho đến Thất Trụ Bồ Tát.

Đại Huệ! Nghĩa bất sanh kia tức biệt hiệu của Như Lai.

Đại Huệ! Ví như lưới báu nhân đà la của Đế Thích và bất nhân đà la, các vật ấy mỗi mỗi có nhiều tên gọi, nhưng chẳng phải có nhiều tên mà có nhiều tánh, cũng chẳng phải không có tự tánh.

Như thế, Đại Huệ! Ta ở nơi Thế Giới Ta Bà này có ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu, phàm phu thảy đều nghe, mỗi mỗi xưng danh hiệu ta mà chẳng biết là biệt danh của Như Lai ta.

Đại Huệ! Hoặc có chúng sanh biết ta là Như Lai, hoặc biết ta là nhất thiết trí, hoặc biết là Phật, hoặc biết là người cứu thế, hoặc biết là người tự giác, hoặc biết là Đạo Sư, hoặc biết là quảng đạo, hoặc biết là tất cả đạo, hoặc biết là Thiên Nhân, hoặc biết là Phạn người thanh tịnh.

Hoặc biết là Trời, hoặt biết là tự tại, hoặc biết là thù thắng, hoặc biết là Tiên Nhân tóc vàng, hoặc biết là chân thật, hoặc biết là mặt trăng, hoặc biết là mặt trời, hoặc biết là chúa tể, hoặc biết là vô sanh, hoặc biết là vô diệt, hoặc biết là tánh không, hoặc biết là như như.

Hoặc biết là Chân Đế, hoặc biết là thật tế, hoặc biết là pháp tánh, hoặc biết là Niết Bàn, hoặc biết là thường, hoặc biết là bình đẳng, hoặc biết là bất nhị, hoặc biết là vô tướng, hoặc biết là giải thoát, hoặc biết là đạo, hoặc biết là sanh v.v...

Đại Huệ! Ba A tăng kỳ trăm ngàn danh hiệu như thế, chẳng thêm chẳng bớt, Thế Giới này và Thế Giới khác thảy đều biết ta, như mặt trăng trong nước chẳng xuất chẳng nhập.

Phàm phu chẳng thể biết ta, vì đọa nơi nhị biên, nhưng đều cung kính cúng dường ta, mà chẳng khéo biết từ ngữ danh cú, chẳng có tự thông, chẳng phân biệt được tên và nghĩa, lại chấp trước mỗi mỗi văn tự ngôn thuyết, nơi bất sanh bất diệt cho là vô tánh, chẳng biết danh hiệu sai biệt của Như Lai dù nhiều mà nghĩa vốn chẳng sai biệt, như một Đế Thích cũng có nhiều danh hiệu vậy. Vì chẳng biết tự thông hội về căn bản, nên đối với tất cả pháp, đuổi theo ngôn thuyết mà chấp trước.

Đại Huệ! Bọn ngu si kia nói như thế rằng: Nghĩa như ngôn thuyết, nghĩa với ngôn thuyết chẳng khác.

Tại sao?

Vì nghĩa chẳng tự thân, ngoài ngôn thuyết chẳng có nghĩa khác, chỉ là ngôn thuyết thôi. Họ bị ác kiến đốt trí, chẳng biết ngôn thuyết tự tánh, chẳng biết ngôn thuyết là sanh diệt, nghĩa thì chẳng sanh diệt.

Đại Huệ! Tất cả ngôn thuyết đọa nơi văn tự, nghĩa thì chẳng đọa, vì lìa tánh phi tánh, nên chẳng thọ sanh, cũng chẳng tự thân.

Đại Huệ! Như Lai chẳng thuyết pháp đọa văn tự, vì văn tự hữu và vô đều bất khả đắc.

Đại Huệ! Nếu có ai nói Như Lai thuyết pháp đọa văn tự, ấy là vọng ngữ, vì pháp lìa văn tự.

Cho nên Đại Huệ! Ta cùng Chư Phật và các Bồ Tát chẳng thuyết một chữ, chẳng đáp một chữ.

Tại sao?

Vì pháp lìa văn tự chứ chẳng phải ta thuyết cái nghĩa không lợi ích cho chúng sanh. Ta chỉ nói ngôn thuyết là vọng tưởng cuả chúng sanh.

Đại Huệ! Nếu ta chẳng thuyết tất cả pháp thì giáo pháp sẽ hoại, nếu giáo pháp hoại thì chẳng có Chư Phật, Bồ Tát và Thanh Văn, Duyên Giác, vậy còn ai thuyết pháp cho ai?

Cho nên, Đại Huệ! Bồ Tát chớ chấp ngôn thuyết mà phương tiện tùy nghi rộng thuyết Kinh Pháp. Do chúng sanh phiền não hy vọng chẳng đồng, nên ta và Chư Phật vì mỗi mỗi hiểu biết khác nhau của chúng sanh mà thuyết các pháp, khiến họ lìa tâm, ý, ý thức, chẳng thuyết chỗ đắc tự giác Thánh trí.

Đại Huệ! Nơi tất cả pháp vốn vô sở hữu, nếu giác được tự tâm hiện lượng thì lìa được hai thứ vọng tưởng, Chư Đại Bồ Tát dựa theo nghĩa này mà chẳng dựa theo văn tự.

Nếu Thiện Nam, tín nữ dựa theo văn tự, là tự hoại đệ nhất nghĩa, chẳng thể tự giác cũng chẳng thể giác tha, đọa nơi ác kiến tương tục mà vì chúng thuyết pháp, chẳng khéo liễu tri tất cả pháp tất cả địa tất cả tướng, cũng chẳng biết nghĩa cú.

Nếu khéo biết tất cả pháp, tất cả địa, tất cả tướng, thông đạt nghĩa cú, tánh nghĩa đầy đủ thì họ được dùng sự vui vô tướng của chánh pháp mà tự thọ sự vui, kiến lập đại thừa bình đẳng cho chúng sanh.

Đại Huệ! Người nhiếp thọ Đại Thừa thì nhiếp thọ Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Vì nhiếp thọ Chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác thì nhiếp thọ tất cả chúng sanh, nhiếp thọ tất cả chúng sanh thì nhiếp thọ chánh pháp, nhiếp thọ chánh pháp thì Phật chủng chẳng dứt, Phật chủng chẳng dứt thì hay liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng.

Liễu tri chỗ đắc nhập thù thắng ấy là Đại Bồ Tát thường được ý sanh hóa thân, tùy nghi kiến lập pháp đại thừa bình đẳng, dùng sức thập tự tại hiện nhiều sắc tướng, thông đạt hình loại phiền não, các tướng hy vọng của chúng sanh mà thuyết pháp như thật. Nói như thật tức là chẳng có khác biệt, tướng như thật là bất khứ, bất lai, tất cả hư ngụy đều dứt, gọi là như thật.

Đại Huệ! Thiện nam, tín nữ chẳng nên nhiếp thọ sự tùy ngôn thuyết chấp trước, vì nghĩa chân thật lìa nơi văn tự.

Đại Huệ! Cũng như phàm phu dùng ngón tay chỉ vật, mà chỉ quán theo ngón tay thì chẳng được nghĩa thật. Cũng thế, nếu phàm phu tùy theo ngôn thuyết của ngón tay mà nhiếp thọ chấp trước thì rốt cuộc chẳng thể đắc đệ nhất nghĩa thật lìa ngón tay ngôn thuyết.

Đại Huệ! Ví như nuôi trẻ nhỏ, nên cho ăn đồ chín, không nên cho ăn đồ sống, nếu cho ăn đồ sống thì có thể khiến nó phát bệnh. Người đuổi theo ngôn thuyết vì chẳng biết thứ lớp phương tiện cuả nghĩa pháp chín mùi cũng như thế.

Do đó, Đại Huệ! Đối với pháp bất sanh bất diệt, người tu chẳng biết phương tiện là chẳng khéo tu, cho nên hành giả phải khéo tu phương tiện, chớ tùy theo ngôn thuyết như xem ngón tay mà chẳng thấy chỗ ngón tay chỉ.

Cho nên, Đại Huệ! Người tu nên khéo biết phương tiện nơi nghĩa chân thật, nghĩa chân thật là nhân của Niết Bàn vi diệu tịch tịnh, ngôn thuyết là vọng tưởng hòa hợp, vọng tưởng là tích tụ sanh tử.

Đại Huệ! Nghĩa chân thật là từ người đa văn mà đắc.

Đại Huệ! Nói đa văn là thấu nơi nghĩa, chẳng phải ở nơi ngôn thuyết. Nói thấu nghĩa thì chẳng theo Kinh Luận của tất cả ngoại đạo, tự thân chẳng theo, cũng chẳng khiến người khác theo, ấy gọi là đại đức đa văn.

Cho nên người muốn cầu nghĩa nên thân cận bậc đa văn thì thấu được nghĩa. Trái với nghĩa này tức là chấp trước ngôn thuyết, nên phải xa lìa.

Khi ấy, Đại Hụê Bồ Tát lại thừa oai thần Phật mà bạch rằng: Bạch Thế Tôn! Pháp bất sanh bất diệt của Thế Tôn hiển thị chẳng có gì lạ.

Tại sao?

Vì lập cái nghĩa nhân của tất cả ngọai đạo, cũng nói bất sanh bất diệt, Thế Tôn cũng nói chẳng phải số lượng duyên diệt, là Niết Bàn bất sanh bất diệt.

Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân duyên sanh thế gian, Thế Tôn cũng nói do vọng tưởng vô minh nghiệp ái làm duyên sanh khởi thế gian. Họ nói nhân, đây nói duyên, ấy chỉ là danh từ sai biệt thôi. Nhân duyên các vật cũng như thế, Thế Tôn với ngọai đạo lập luận chẳng có sai biệt.

Ngoại đạo nói vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng sanh, chúa v.v... có chín sự vật bất sanh, bất diệt. Thế Tôn cũng nói tất cả tánh bất sanh, bất diệt, hữu và vô bất khả đắc.

Ngoại đạo cũng nói tứ đại chẳng hoại, tự tánh bất sanh bất diệt, tứ đại thường là tứ đại, cho đến luân hồi lục đạo mà chẳng xa lìa tự tánh. Thế Tôn sở thuyết cũng như thế. Cho nên con nói chẳng có gì lạ.

Nay cúi xin Thế Tôn vì đại chúng thuyết pháp đặc biệt, kỳ lạ hơn các pháp ngoại đạo. Nếu pháp chẳng sai biệt thì tất cả ngoại đạo cũng đều là Phật, vì cùng nói bất sanh, bất diệt vậy.

Lại, Thế Tôn nói nơi một Thế Giới mà có nhiều Phật ra đời là chẳng có chỗ đúng, nếu theo lời sở thuyết trên thì trong một Thế Giới phải có nhiều Phật, vì pháp ngoại đạo với Phật chẳng sai biệt vậy.

Phật bảo Đại Huệ: Ta nói bất sanh bất diệt, chẳng đồng bất sanh bất diệt của ngoại đạo.

Tại sao?

Vì các ngoại đạo họ chấp có tánh của tự tánh để đắc tướng bất sanh bất biến, ta chẳng như thế mà đọa sự hữu và vô.

Đại Huệ! Pháp ta nói lìa hữu và vô, lìa sanh diệt, phi tánh phi vô tánh, mỗi mỗi pháp như mộng huyễn hiện, nên phi vô tánh. Nói vô tánh là sắc tướng chẳng có tự tánh nhiếp thọ, hiện như chẳng hiện, nhiếp như chẳng nhiếp.

Do đó nên nói tất cả tánh vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác được tự tâm hiện lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc thế gian.

Phàm phu ngu si, dùng vọng tưởng làm việc, chẳng phải Thánh Hiền, biết vọng tưởng chẳng thật như thành Càn Thát Bà và người huyễn hóa.

Đại Huệ! Như trong thành Càn Thát Bà, có người huyễn hoá, người buôn bán, đủ thứ chúng sanh ra vào, phàm phu vọng tưởng cho có người chân thật ra vào, nhưng thật thì chẳng có kẻ ra người vào.

Như thế, Đại Huệ! Phàm phu ngu si, khởi tưởng mê hoặc bất sanh bất diệt, thật cũng chẳng có hữu vi vô vi, hoặc sanh hoặc diệt của người huyễn, kỳ thật người huyễn vốn chẳng có.

Tất cả pháp cũng như thế, lìa nơi sanh diệt, tánh và vô tánh đều vô sở hữu. Phàm phu ngu si, đọa kiến chấp bất như thật, khởi vọng tưởng sanh diệt, bất như thật của các bậc Thánh Hiền thì chẳng như vậy.

Nhưng tánh và phi tánh với vọng tưởng cũng chẳng có khác, nếu khác với vọng tưởng, chấp trước tất cả tánh của tự tánh thì chẳng thấy tịch tịnh. Nếu chẳng thấy tịch tịnh thì rốt cuộc chẳng thể lìa vọng tưởng.

Cho nên Đại Huệ! Chẳng có thấy tướng mà thấy vô tướng mới đúng. Thấy tướng là cái nhân thọ sanh nên chẳng đúng, vô tướng thì vọng tưởng chẳng sanh, chẳng khởi chẳng diệt, ta nói là Niết Bàn.

Đại Huệ! Niết Bàn là thấy nghĩa chân thật, lìa pháp tâm, tâm số của vọng tưởng, cho đến đắc Như Lai Tự Giác Thánh Trí, ta nói là Niết Bàn.

Khi ấy Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Diệt trừ nhân sanh luận,

Kiến lập nghĩa bất sanh.

Pháp ta thuyết như thế,

Phàm phu chẳng thể biết.

Tất cả pháp bất sanh,

Vô tánh vô sở hữu.

Như thành Càn Thát Bà,

Và mộng huyễn vô nhân.

Bất sanh chẳng tự tánh,

Pháp không có nhân gì?

Vì lìa nơi hòa hợp,

Tánh giác tri chẳng hiện.

Nên pháp không bất sanh.

Ta nói chẳng tự tánh.

Vì mỗi mỗi hòa hợp,

Dù hiện chẳng thật có.

Phân tích chẳng hòa hợp,

Kiến chấp của ngoại đạo.

Như mộng huyển hoa đốm,

Và thành Càn Thát Bà.

Mỗi mỗi việc thế gian,

Vô nhân mà tướng hiện.

Hàng phục hữu nhân luận,

Hiển bày nghĩa vô sanh.

Pháp vô sanh hiển bày,

Thì dòng pháp chẳng dứt.

Vô sanh tức vô nhân,

Các ngoại đạo kinh sợ.

Khi ấy Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ hỏi rằng:

Thế nào là sở nhân?

Do nhân nào có sanh?

Ở nơi nào hòa hợp,

Mà lập vô nhân luận?

Thế Tôn dùng kệ đáp rằng:

Quán sát pháp hữu vi,

Chẳng nhân chẳng vô nhân.

Ngoại đạo sanh diệt luận,

Kiến chấp từ đây diệt.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại thuyết kệ hỏi rằng:

Thế nào là vô sanh?

Ấy là vô tánh ư?

Hoặc vì quán các duyên,

Có pháp gọi vô sanh?

Tên chẳng lẽ không nghĩa?

Cúi xin phân biệt thuyết.

Thế Tôn lại dùng kệ đáp rằng:

Phi vô tánh vô sanh,

Cũng phi quán các duyên,

Phi hữu tánh đặt tên,

Có tên phi vô nghĩa.

Phi cảnh giới ngoại đạo,

Thanh Văn và Duyên Giác.

Cho đến hàng Thất Trụ,

Đây gọi tướng vô sanh.

Xa lìa các nhân duyên,

Cũng lìa tất cả việc.

Vì duy tâm kiến lập,

Tưởng, sở tưởng đều lìa.

Sắc thân tùy nghiệp chuyển,

Ta nói là vô sanh.

Vô tánh vô ngoài tánh,

Cũng chẳng tâm nhiếp thọ.

Dứt tất cả kiến chấp,

Ta nói là vô sanh.

Phân biệt nhiều nghĩa không,

Phi không nên nói không.

Vô sanh nên nói không,

Vô tự tánh như thế.

Do nhân duyên hòa hợp,

Thì có sanh có diệt.

Lìa các số nhân duyên,

Vốn chẳng có sanh diệt.

Lìa bỏ số nhân duyên,

Thì chẳng có tánh khác.

Nếu nói nhất và dị,

Là vọng tưởng ngoại đạo.

Tánh hữu, vô bất sanh,

Phi hữu cũng phi vô.

Ngoại trừ số chuyển biến,

Thảy đều bất khả đắc.

Chỉ có số thế tục,

Duyên nhau thành xiềng xích.

Lìa nhân duyên xiềng xích,

Phàm phu chẳng thể hiểu.

Nếu lìa duyên xiềng xích,

Nghĩa sanh bất khả đắc.

Tánh vô sanh chẳng khởi,

Lìa các lỗi ngoại đạo.

Chỉ nói duyên xiềng xích,

Phàm phu chẳng thể hiểu.

Nếu lìa duyên xiềng xích,

Mà có tánh sanh khác.

Ấy là vô nhân luận,

Phá hoại nghĩa xiềng xích.

Như đèn hiển sắc tướng,

Xiềng xích hiện cũng thế.

Nếu lìa nghĩa xiềng xích,

Lại còn có các tánh.

Tánh ấy đều vô tánh,

Như tánh của hư không.

Lìa xiềng xích cũng thế,

Bậc trí chẳng phân biệt.

Vô sanh chẳng pháp khác,

Là pháp của Thánh Hiền.

Người đắc pháp vô sanh,

Là chứng vô sanh nhẫn.

Giả sử trong thế gian,

Người quán sát xiềng xích.

Lìa tất cả xiềng xích,

Do đó đắc chánh định.

Nghiệp ái tham, sân, si,

Là xiềng xích nội tâm.

Đất sình, cây dùi lửa,

Là chủng tử bên ngoài.

Trong ngoài duyên nhau sanh.

Giả sử có tánh khác,

Chẳng phải nghĩa xiềng xích,

Pháp ấy chẳng thành tựu.

Nếu sanh chẳng tự tánh,

Ai làm nghĩa xiềng xích.

Vì lần lượt sanh nhau,

Nên gọi nghĩa nhân duyên.

Phàm phu vọng tưởng sanh,

Pháp địa, thủy, hỏa, phong.

Lìa số chẳng pháp khác,

Là cái thuyết vô tánh.

Như thầy thuốc chữa bệnh,

Vì bệnh có sai biệt,

Nên lập đủ thứ luận,

Để trị mỗi mỗi bệnh.

Ta vì các chúng sanh,

Đoạn dứt phiền não họ.

Tùy trình độ cao thấp,

Thuyết độ môn cho họ.

Gốc phiền não chẳng khác,

Mà có đủ thứ pháp.

Đây thuyết pháp nhất thừa,

Cũng gọi là đại thừa.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Tất cả ngoại đạo đều khởi vọng tưởng vô thường, Thế Tôn cũng thuyết tất cả hành, vô thường, là pháp sanh diệt.

Thế Tôn! Nghĩa này thế nào?

Là tà hay chánh?

Có mấy thứ vô thường?

Phật bảo Đại Huệ: Tất cả ngoại đạo có bảy thứ vô thường, chẳng phải pháp ta thuyết vậy.

Thế nào là bảy?

Họ hoặc nói tạo rồi lui bỏ gọi là vô thường. Hoặc nói bình xứ hoại gọi là vô thường. Hoặc nói ngay sắc thể đó là vô thường. Hoặc nói giữa quá trình biến chuyển gọi là vô thường, các vật tự thể tan hoại chẳng gián đoạn, như sự chuyển biến của sữa thành tô lạc, ngay giữa chuyển biến chẳng thể thấy, tất cả tánh chuyển biến vô thường hủy hoại cũng như thế.

Hoặc nói tánh, vô thường, hoặc nói tánh, vô tánh, vô thường, hoặc nói tất cả pháp bất sanh, vô thường, v.v... họ đem những kiến chấp vô thường này vào tất cả pháp.

1. Đại Huệ! Ngoại đạo nói tạo rồi liền bỏ là vô thường. Ta nói lìa kẻ bắt đầu tạo ra vô thường thì chẳng phải tứ đại. Vì tứ đại bất sanh là nghĩa thường, nếu còn có pháp khác với tứ đại, mỗi mỗi tự tướng khác nhau thì chẳng có sai biệt để đắc, vì sai biệt ấy đều chẳng thể tạo nữa.

Hai thứ phân biệt chẳng thể tạo chẳng có kẻ bắt đầu tạo vô thường, cũng chẳng có kẻ bắt đầu tạo thường, nên biết vô thường tức là thường.

2. Ngoại đạo nói hình xứ hoại là vô thường. Ta nói tứ đại và tứ đại tạo sắc chẳng hoại, cứu cánh chẳng hoại.

Đại Huệ! Nói cứu cánh là phân tích cho đến vi trần, quán sát sự hoại của tứ đại và tứ đại tạo sắc, thấy hình xứ dài ngắn và khác biệt đều bất khả đắc thì chẳng phải tứ đại, nên nói tứ đại chẳng hoại. Hiện hình xứ hoại là đọa nơi số luận.

3. Ngoại đạo nói ngay sắc thể tức là vô thường, ấy cũng là hình xứ vô thường, chẳng phải tứ đại. Nếu tứ đại vô thường thì chẳng phải ngôn thuyết thế tục, vì ngôn thuyết thế tục phi tánh. Thấy tất cả tánh chỉ có ngôn thuyết, chẳng thấy tự tướng sanh, là đoạ nơi thế luận.

4. Ngoại đạo nói chuyển biến vô thường. Ta nói sắc thể hiện khác với tánh, chẳng phải tứ đại có khác. Như vàng làm ra nhiều đồ trang sức, hiện chuyển biến khác nhau nhưng chẳng phải tánh vàng có khác, chỉ là những đồ trang sức khác nhau thôi. Vậy các tánh kia chuyển biến cũng như thế.

5. Đại Huệ! Nói tánh vô thường là tự tâm vọng tưởng, chấp tánh phi thường là vô thường.

Tại sao?

Nói vô thường của tự tánh bất hoại.

Đại Huệ! Đây là tất cả tánh vô tánh, là sự vô thường. Ngoài sự vô thường, chẳng có gì có thể khiến tất cả pháp tánh vô tánh. Như gậy, ngói, đá, dù có tướng khác biệt, phá hoại rồi thì thấy mỗi mỗi chẳng khác, ấy là sự tánh vô thường, chẳng phải năng tác sở tác có sai biệt, đây là sự vô thường. Vì năng tác sở tác chẳng khác thì tất cả tánh vô nhân. Tánh vô nhân là thường.

Đại Huệ! Tất cả tánh vô tánh hữu nhân, chẳng phải phàm phu có thể biết. Phi nhân thì sự bất tương tự sanh khởi, cũng như cây lý có thể sanh ra cây đào, cây đào có thể sanh ra cây xoài, v.v... nếu sanh khởi thì nói tất cả tánh thảy đều vô thường là có lỗi.

Việc bất tương tự này, năng tác sở tác chẳng có sai biệt mà lại thấy có khác. Nếu nói tánh vô thường thì đọa tánh tướng có nhân, tác, có tác thì tất cả tánh chẳng cứu cánh.

Nếu tất cả tánh đọa tướng có năng tác, thì năng tác vô thường, sở tác cũng vô thường. Năng vô thường, sở vô thường thì tất cả tánh chẳng vô thường, vì vô thường thường sanh vô thường, tức là thường vậy.

Nếu chấp vô thường vào tất cả tánh thì hoại nghĩa tam thế. Như sắc quá khứ vô thường ắt chẳng lìa hoại. Nếu đã hoại thì vị lai bất sanh, nếu sắc bất sanh thì tướng sắc hiện tại cũng đồng như hoại. Nói sắc là do tứ đại tích tụ, có tánh sai biệt, tứ đại và tứ đại tạo sắc tự tánh chẳng hoại, lìa khác và chẳng khác.

Tất cả ngoại đạo đối với nghĩa chẳng hoại, tứ đại và tứ đại tạo sắc nơi tất cả tam giới chẳng thể biết tánh vốn chẳng hoại, nên có sanh diệt.

Nếu lìa tứ đại tạo sắc, thì tất cả ngoại đạo dựa vào đâu mà suy nghĩ tánh vô thường ư?

Tướng tự tánh bất hoại thì tướng tự tánh bất sanh.

6. Đại Huệ! Nói tánh vô tánh vô thường, là lìa tứ đại và tứ đại sở tạo, khi tự tướng hoại, tứ đại tự tánh bất khả đắc, tức là bất sanh.

7. Nói bất sanh vô thường, là phi thường vô thường. Tất cả pháp hữu và vô bất sanh, phân tích cho đến vi trần thì chẳng thể thấy, ấy là nghĩa bất sanh, phi sanh, gọi là tướng vô thường bất sanh. Nếu chẳng giác được nghĩa này thì đọa ngoại đạo sanh nghĩa vô thường.

Mỗi mỗi ngoại đạo vọng tưởng có kiến chấp vô thường như thế, như lúc tứ đại bị cháy mà tự tướng chẳng cháy. Nếu tướng của mỗi mỗi tự tướng thiêu hoại thì mỗi mỗi tạo sắc phải đoạn dứt, mà thật thì chẳng như thế.

Đại Huệ! Pháp ta nói phi thường phi vô thường.

Tại sao?

Vì ngoài tánh chẳng thể quyết định, nên chỉ nói tam giới duy tâm, chẳng nói mỗi mỗi tướng có sanh có diệt. Tứ đại hòa hợp có sai biệt là do tứ đại và tứ đại tạo sắc sanh ra vọng tưởng phân biệt.

Có hai thứ năng nhiếp sở nhiếp, nếu biết hai thứ đều là vọng tưởng, lìa hai thứ kiến chấp ngoài tánh phi tánh, giác được vọng tưởng của tự tâm hiện lượng do tự tướng tác hành sanh khởi phân biệt mới có, sở tác nghiệp tướng gọi là vọng tưởng sanh, chẳng phải không có tư tưởng tác hành mà gọi là vọng tưởng vậy.

Lìa vọng tưởng của tâm, tánh, vô tánh, tất cả pháp thế gian, xuất thế gian, cho đến siêu việt xuất thế gian, đều phi thường phi vô thường.

Nếu chẳng biết tự tâm hiện lượng, thì đọa ác kiến nhị biên tương tục. Tất cả ngoại đạo do tự vọng tưởng, chẳng biết ba thứ pháp tướng thế gian, pháp tướng xuất thế gian và thắng siêu việt pháp tướng xuất thế gian, dựa theo ngôn ngữ vọng tưởng thuyết mỗi mỗi pháp. Ta nói cảnh giới phi thường phi vô thường, chẳng phải phàm phu có thể hiểu biết, vì họ chẳng giác được tự tâm hiện lượng vậy.

Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Lìa sự bắt đầu tạo,

Và hình xứ khác biệt.

Nói tánh sắc vô thường,

Là vọng tưởng ngoại đạo.

Các tánh chẳng thể hoại,

Tự trụ tánh tứ đại.

Ngoại đạo tưởng vô thường,

Là chìm nơi kiến chấp.

Pháp hoặc sanh hoặc diệt,

Tánh tứ đại tự thường.

Tại sao bọn ngoại đạo

Lại sanh tưởng vô thường?

Năng nhiếp và sở nhiếp,

Tất cả duy tâm tạo.

Theo hai tâm lưu chuyển,

Vô ngã và ngã sở.

Nói gốc cây Phạm Thiên ngã,

Nhánh lá khắp thế gian ngã sở.

Theo pháp ta sở thuyết,

Chỉ do tâm họ tạo.

Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin vì đại chúng thuyết tướng thứ lớp tương tục diệt tận định của tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Nếu khéo biết tướng thứ lớp tương tục diệt tận định, thì khiến con và các Bồ Tát chẳng vọng xả sự vui của pháp môn diệt tận định, cuối cùng chẳng đọa sự ngu si của tất cả ngoại đạo Thanh Văn và Duyên Giác.

Phật bảo Đại Huệ: Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, ta sẽ vì ngươi mà thuyết.

Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Cúi xin thọ giáo.

Phật bảo Đại Huệ: Từ Sơ Địa đến Lục Địa Bồ Tát đắc nhân vô ngã, nhập diệt tận định với Thanh Văn, Duyên Giác chẳng khác. Vì nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Thất Địa Bồ Tát nhập diệt tận định lìa tất cả tướng hữu vô.

Dù có tánh Niết Bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị Thừa có nhiếp thọ sự vui của chánh định, cho chánh định là thiện, duyên theo hữu vi nhập diệt tận định, đọa cảnh giới năng nhiếp sở nhiếp và có hành có giác.

Cho nên Thất Địa Bồ Tát niệm niệm nhập diệt tận định mà chẳng nghĩ diệt tận định là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp hữu, pháp vô, pháp thiện, pháp bất thiện.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần