Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH BỒ TÁT
DI LẶC HẠ SANH THÀNH PHẬT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
Đại trí Xá Lợi Phất, bậc tướng vĩ đại trong Pháp Phật, bậc theo Đức Thế Tôn chuyển bánh xe pháp, vì thương thưởng chúng sanh nên bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Theo trình tự như trong Kinh dạy, Bồ Tát Di Lặc sẽ Hạ Sanh làm Phật. Chúng con muốn nghe Đức Thế Tôn dạy rõ về sự trang nghiêm cõi nước và thần lực công đức của Phật Di Lặc.
Chúng sanh bố thí như thế nào?
Giữ giới thế nào và được trí tuệ gì để được gặp Phật Di Lặc?
Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Nay ta giảng rộng việc này. Thầy hãy nhất tâm lắng nghe.
Này Xá Lợi Phất! Nước trong bốn biển cả giảm bớt một ít còn ba ngàn do tuần, lúc ấy đất ở Diêm Phù Đề dài mười ngàn do tuần, rộng tám ngàn do tuần, bằng phẳng như gương gọi là Hoa Nhuyến. Cỏ phủ khắp mặt đất, các loại cây cối, hoa quả thật sum suê.
Cây ở đây đều cao ba mươi dặm, thành phố nối tiếp nhau, gà có thể bay qua lại, tuổi thọ của con người là tám vạn bốn ngàn năm. Họ có đầy đủ oai đức, trí tuệ và sắc lực an vui.
Chỉ có ba bệnh:
1. Đại tiểu tiện.
2. Ăn uống.
3. Già suy.
Người nữ ở đây năm trăm tuổi mới kết hôn. Khi ấy có một thành lớn tên Sí Đầu Mạc, dài mười hai do tuần, rộng bảy do tuần, vô cùng sạch sẽ, trật tự và tốt đẹp.
Người ở trong Thành này phước đức sung mãn và nhờ phước đức nên họ rất giàu sang, vui vẻ, an bình. Thành này có bảy báu và lầu gác, cửa lớn, sửa sổ, lan can đều do bảy báu tạo thành, lưới chân châu bao phủ lên trên, đường sá rộng mười hai dặm, được quét dọn sạch sẽ, có đại lực Long Vương tên Đa La Thi Khí.
Ao và Cung Điện của Long Vương gần Thành. Vào lúc nửa đêm, trong ao này thường có mưa phùn để đầm bụi, vì thế mặt đất ướt sáng như thoa dầu, người đi đường không bị bụi bám. Đây là nhờ phước đức của dân chúng nên được như vậy. Đường xá khắp nơi đều có trụ ngọc minh châu cao mười dặm, ánh sáng chiếu tỏa suốt ngày đêm phát ra từ trụ này nên không cần dùng đến ánh sáng của đèn đuốc.
Từ những nẻo đường đến nhà cửa, thành ấp hoàn toàn không có một cục đất nhỏ nào, mặt đất được phủ thuần bằng cát vàng và có những đụn vàng bạc ở khắp nơi. Có Thần đại Dạ Xoa tên Bạt Đà Ba La Xa Tắc Ca luôn bảo vệ và quét dọn sạch sẽ trong Thành. Nếu có những vật dơ hay đại tiểu tiện thì mặt đất nứt ra tiếp nhận những vật dơ đó, xong rồi khép lại như cũ.
Người nào sắp chết, tự nhiên đi đến giữa mộ mà chết. Đời sống thật an vui, không có những nạn trộm cắp, giặc cướp hay oán thù. Làng mạc, phố xá không ai đóng cửa, cũng không buồn phiền vì những nạn binh đao, nước, lửa hay độc hại, đói khát. Người người sống với nhau bằng tâm từ ái, cung kính, thuận hòa. Họ chế phục các căn, nói năng khiêm tốn.
Này Xá Lợi Phất! Ta nói tóm tắt cho thầy nghe về sự an vui, giàu có tại thành ấp ở cõi nước kia. Trong những ao, suối, vườn, rừng nơi đây, tự nhiên có nước tám công đức và trên mặt ao phủ đầy hoa sen đủ màu sắc xanh, hồng, đỏ, trắng xen nhau rất đẹp. Bốn phía ao có bốn bậc thềm bằng châu báu.
Có nhiều giống chim tụ tập lại thường trú ngụ nơi ao, hót líu lo tạo thành âm thanh tuyệt diệu như chim thiên nga, chim uyên ương, chim công, chim phỉ thúy, chim anh vũ, chim xá lợi, chim cưu na la, chim kỳ bà kỳ bà... Và còn những loài chim khác hót hay tuyệt vời, không thể tính hết. Trong nước có đầy cây thơm, quả ngọt.
Bấy giờ trong Diêm Phù Đề thường có mùi hương tuyệt hảo, giống như là núi hương, chảy ra những vị ngọt thơm ngon trừ bệnh hoạn. Mưa nhuần thấm theo thời tiết nên lúa gạo tốt tươi, không sanh ra loài cỏ dại mà chỉ thuần một loại lúa ngon, dùng công sức rất ít, thu hoạch lại nhiều, người ăn cảm thấy thơm ngon, tăng nhiều khí lực.
Trong nước lúc ấy có Vua Chuyển Luân tên Nhương Khứ, có bốn loại binh, không cần dùng đến oai lực để trị vì dân chúng. Vua có ngàn người con tráng kiện, oai hùng, phá tan giặc oán.
Vua có bảy báu: Kim luân bảo, tượng bảo, mã bảo, châu bảo, nữ bảo, chủ tàng bảo và chủ binh bảo. Đất nước này có đài bảy báu, tất cả đều cao ngàn trượng, ngàn đầu, ngàn bánh xe và rộng sáu mươi trượng. Có bốn kho tàng lớn, mỗi một kho tàng lớn lại có bốn ức kho tàng nhỏ xung quanh.
Kho tàng Y Lặc Bát ở nước Càn Đà La, kho tàng Bàn Du Ca ở nước Di Đề La, kho tàng Tân Ca La ở nước Tu La Tra, kho tàng của Vua Nhượng Khứ ở nước Ba La Nại. Bốn kho tàng lớn này chu vi một ngàn do tuần, trong đó đầy ắp trân bảo.
Mỗi kho tàng lớn lại có bốn ức kho tàng nhỏ phụ. Có bốn con rồng lớn tự bảo vệ kho tàng. Bốn kho tàng lớn và các kho tàng nhỏ tự nhiên phun ra như hình hoa sen, vô số người cùng đến tham quan.
Các kho báu này không có người trông giữ, những người trông thấy cũng không sanh tâm tham đắm, bỏ ra đất giống như ngói đá, cỏ cây, cục đất...
Những người trông thấy châu báu đều sanh tâm nhàm chán mà nghĩ thế này: Xưa kia, các chúng sanh do châu báu này mà cùng tàn hại lẫn nhau, lại cùng quanh co, lường gạt, cướp đoạt nhau, làm cho tăng thêm tội lỗi ràng buộc nơi đường sanh tử.
Thành Sí Đầu Mạc được các lưới châu báu phủ khắp bên trên và trang hoàng những phong linh báu, mỗi khi gió nhẹ xao động chúng vang ra những thanh âm trầm nhẹ ngân nga như chuông đồng. Trong Thành Sí Đầu Mạc có người chủ đại Bà La Môn tên Diệu Phạm.
Người nữ Bà La Môn tên Phạm Ma Ba Đề, Bồ Tát Di Lặc thác sanh làm con của hai vị Bà La Môn này. Ngài có thân màu vàng ròng, ba mươi hai tướng tốt, chúng sanh trông thấy nhìn mãi không nhàm, thần lực vô lượng không thể nghĩ bàn, hào quang tỏa chiếu xuyên suốt tất cả, phủ mờ hết ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và hỏa châu.
Thân Bồ Tát cao ngàn thước, ngực rộng ba mươi trượng, mặt dài mười hai trượng bốn thước. Thân thể toàn vẹn đoan chánh, không gì sánh được.
Ngài thành tựu tướng tốt như tượng vàng ròng, mắt thịt thanh tịnh nhìn xa mười do tuần, thường tỏa ánh sáng bốn phía mặt hàng trăm do tuần, ánh sáng của mặt trăng, mặt trời và hỏa châu không hiện ra được. Chỉ có hào quang Đức Phật là tốt đẹp vi diệu đệ nhất. Bồ Tát Di Lặc vô cùng thương xót khi quán thấy cuộc đời ngũ dục đưa đến nhiều hoạn nạn và làm chìm đắm biết bao chúng sanh vào biển cả sanh tử.
Vì lý do đó mà Ngài chánh niệm tư duy, không thích sống ở gia đình. Vua Nhương Khứ cùng các Đại Thần đem đài báu này dâng lên Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát nhận xong đem cho các Bà La Môn.
Các Bà La Môn nhận xong liền làm hủy hoại, phân tán hết. Bồ Tát Di Lặc nhìn thấy đài báu tốt đẹp này bị vô thường trong thoáng chốc và nhận thấy tất cả những gì hiện hữu cũng đều bị hoại diệt nên tu quán vô thường, xuất gia học đạo. Bồ Tát ngồi dưới cội cây Bồ đề Long Hoa, lá cành thân cây cao năm mươi dặm. Vào ngày Bồ Tát xuất gia, liền đắc quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Lúc đó, Chư Thiên, Long Thần Vương ẩn thân, tuôn hoa hương xuống cúng dường Phật. Ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều chấn động mạnh. Phật phóng hào quang tỏa chiếu vô lượng cõi nước, những ai có duyên hóa độ đều được thấy Phật.
Lúc bấy giờ mọi người tự nghĩ: Dầu cho ngàn vạn ức năm hưởng thụ thú vui ngũ dục vẫn không thoát khỏi khổ đau trong ba đường ác, vợ con hay tài sản vẫn không cứu giúp được.
Cuộc đời mong manh, mạng người khó giữ được lâu dài, nay chúng ta nên tu hành phạm hạnh nơi giáo pháp Phật. Suy nghĩ như vậy rồi họ xin xuất gia học đạo.
Khi ấy, vua Nhương Khứ cùng tám vạn bốn ngàn Đại Thần cung kính xung quanh Phật xin xuất gia học đạo. Có tám vạn bốn ngàn các Bà La Môn nhiều trí tuệ thông minh cùng xin xuất gia trong giáo pháp Phật.
Trưởng giả Tu Đạt Na nay là trưởng giả Tu Đạt cùng với tám vạn bốn ngàn người đều xin xuất gia. Có anh em Lô Sư Đạt Đa Phú Lan Na cùng với với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia và có hai Đại Thần, một người tên Chiên Đàn, một người tên Tu Mạn được Vua yêu mến, trọng dụng cũng cùng với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia trong giáo pháp Phật.
Bảo nữ của Vua Nhương Khứ tên Xá Di Bà đế nay là Tỳ Xá Khư cùng với tám vạn bốn ngàn thể nữ đều xin xuất gia. Thái Tử của Vua Nhương Khứ tên Thiên Sắc, nay là Đề Bà Na cùng với tám vạn bốn ngàn người đều xin xuất gia.
Tu Ma Đề con của một Bà La Môn là thân tộc của Phật Di Lặc, có trí tuệ và các căn lanh lợi, nay là Uất Đa La cùng với tám vạn bốn ngàn người xin xuất gia trong giáo pháp Phật. Vô lượng ngàn vạn ức đại chúng này vì thấy cuộc đời khổ não nên muốn xuất gia trong giáo pháp Phật Di Lặc.
Đức Phật Di Lặc biết tâm niệm của đại chúng nên nói: Nay các ngươi không vì thú vui sanh lên Trời, không vì thú vui đời hiện tại mà đến chỗ ta, chỉ vì nhân duyên Niết Bàn, thường, lạc. Những người như vậy là đã trồng nhiều thiện căn nơi Pháp Phật, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để lại giao phó cho ta.
Thế nên hôm nay các ngươi đến chỗ ta, ta xin tiếp nhận. Những người này do đọc tụng, phân tích, quyết định tu tạng A Tỳ Đàm, Đố Lộ Tỳ Ni và tu tập các công đức nên đến chỗ ta.
Hoặc đem cơm áo cúng dường cho người trí tuệ giữ giới, do tu các công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc đem tràng phan, hoa hương cúng dường Phật, do tu công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc bố thí, giữ trai giới, tu tập tâm từ, thực hành công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc vì sự khổ não của chúng sanh, muốn làm cho họ được an vui nên tu tập công đức này và được đến chỗ ta.
Hoặc giữ giới, nhẫn nhục, tu trí tuệ thanh tịnh, do công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc cúng dường thực phẩm, cúng dường Chư Tăng, cúng dường thức ăn cho lễ hội, giảng Kinh, vì tu công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc giữ giới, nghe nhiều, tu tập Thiền định và trí tuệ vô lậu, do công đức này nên đến chỗ ta.
Hoặc xây Tháp, cúng dường Xá Lợi, do công đức này nên đến chỗ ta.
Lành thay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Đã khéo giáo hóa trăm ngàn vạn ức chúng sanh như vậy, làm cho họ đến chỗ ta.
Phật Di Lặc ba lần ngợi khen Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, sau đó Ngài thuyết pháp và nói thế này: Những chúng sanh nào ở trong cuộc đời xấu ác, nhiều tham dục, sân hận, ngu si, mê hoặc và mạng sống ngắn ngủi mà làm được việc khó làm như tu hành, giữ giới, làm các công đức thì thật là hy hữu.
Trong lúc có những chúng sanh không biết đến cha mẹ, Sa Môn, Bà La Môn. Không biết đạo pháp, gần gũi với đao binh, giặc cướp, sát hại lẫn nhau, đam mê nơi ngũ dục, ganh tị, dối trá, quanh co.
Tà ngụy vẩn đục, không có tâm thương mến, uống máu, ăn thịt, làm việc giết hại. Những ai ở trong chốn đó mà có thể tu hành, làm việc thiện thì thật là hy hữu.
Hay thay, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni! Ngài đã đem tâm đại bi ban rải cho khắp chúng sanh bị khổ não bằng những lời răn dạy vô cùng chân thật. Và Ngài đã chỉ dạy ta sự giáo hóa cứu độ các ngươi trong tương lai. Bậc thầy như vậy thật khó được gặp. Trong thâm tâm Ngài luôn thương tưởng chúng sanh trong cuộc đời xấu ác.
Ngài cứu giúp họ thoát khỏi khổ đau và làm cho họ được an ổn. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì các ngươi mà bố thí đầu, tai, mũi, tay, chân, thân thể... Ngài đã chịu biết bao khổ não để mang lại lợi lạc cho các ngươi. Đức Phật Di Lặc an ủi vô lượng chúng sanh bằng những lời khại đạo như vậy, khiến họ vô cùng hoan hỷ. Sau đó Ngài mới thuyết pháp.
Trong số chúng sanh đó có người phước đức sung mãn, cung kính tin thọ và khát ngưỡng Đại Sư, họ muốn nghe pháp nên suy nghĩ: Nguồn gốc các khổ do năm dục bất tịnh. Chúng ta nên từ bỏ lo sầu khổ não, biết pháp khổ vui đều là vô thường.
Phật Di Lặc quán sát tâm của đại chúng khi ấy đều thanh tịnh, thuần thục. Ngài thuyết pháp Tứ Đế, những người được nghe đồng thời đạt đạo Niết Bàn. Lúc bấy giờ Phật Di Lặc ở vườn Hoa Lâm. Vườn này có diện tích một trăm do tuần, đại chúng đầy khắp vườn.
Hội thuyết pháp lần đầu có chín mươi sáu ức người đắc quả A La Hán. Đại hội thuyết pháp lần hai có chín mươi tư ức người đắc quả A La Hán. Hội thuyết pháp lần ba có chín mươi hai ức người đắc quả A La Hán.
Phật Di Lặc đã chuyển pháp luân hóa độ Chư Thiên và loài người rồi, Ngài dẫn các đệ tử vào thành khất thực. Vô lượng chúng Trời Tịnh Cư cung kính theo Phật vào Thành Sí Đầu Mạc. Trong lúc vào Thành, họ hiện vô số thần lực và vô lượng sự biến hiện.
Thích Đề Hoàn Nhân cùng Chư Thiên Cõi Dục, Phạm Thiên Vương cùng Chư Thiên Cõi Sắc trỗi trăm ngàn loại âm nhạc ca ngợi công Đức Phật và mưa tuôn những hoa Trời, bột thơm Chiên Đàn cúng dường Đức Phật. Họ dựng tràng phan, lọng che khắp các nẻo đường và đốt những loại hương thơm, khói tụ như mây.
Khi Đức Thế Tôn vào Thành, Đại Phạm Thiên Vương và Thích Đề Hoàn Nhân chắp tay cung kính nói kệ tán thán:
Đấng chánh biến tri Lưỡng Túc Tôn
Trời người thế gian không sánh kịp
Thế Tôn thập lực rất hy hữu
Ruộng phước tốt cao tột vô biên
Ai cúng dường Phật sanh lên Trời
Cung kính đảnh lễ bậc tinh tấn.
Lúc ấy, Trời, Người, La Sát... trông thấy đại lực rộng lớn của Phật chinh phục tất cả. Ngàn vạn ức vô lượng chúng sanh đều rất hoan hỷ.
Họ chắp tay ca ngợi: Vô cùng hy hữu! Vô cùng hy hữu! Công đức thần lực của Như Lai viên mãn không thể nghĩ bàn. Các Trời người đem hoa sen đủ màu sắc xen lẫn và hoa Mạn Đà La để rải trên đất Phật. Hoa tụ lại cao đến đầu gối. Chư Thiên trong hư không trỗi trăm ngàn âm nhạc ca ngợi công Đức Phật.
Từ đầu đêm đến cuối đêm, Ma Vương luôn cảnh tỉnh mọi người rằng: Các ngươi đã được làm thân người, được gặp thời tốt đẹp, chớ nên ngủ nghỉ suốt đêm để tâm trí mê muội. Hoặc đứng hay ngồi, các ngươi cũng cần phải nỗ lực tinh tấn giữ chánh niệm, quán sát chân chính về năm ấm, vô thường, khổ, không, vô ngã.
Các ngươi hãy thực hành theo lời Phật dạy, chớ có buông lung. Nếu ai phát sanh nghiệp ác, sau này chắc chắn đưa đến hối hận.
Khi đó trên các nẻo đường, nam nữ đều bắt chước nói theo: Các ngươi hãy thực hành theo lời Phật dạy, chớ có buông lung. Nếu ai phát sanh nghiệp ác, sau này chắc chắn sẽ hối hận. Hãy nỗ lực phương tiện, tinh tấn cầu đạo, chớ đánh mất pháp lợi lạc mà rong ruỗi theo con đường sanh tử.
Khó thay được gặp đấng Đạo Sư cứu vớt khổ não cho chúng sanh như vậy. Nhờ tâm kiên trì tinh tấn sẽ được Niết Bàn thường lạc. Các đệ tử của Phật Di Lặc đều đầy đủ oai nghi, thân đoan chánh. Họ nhàm chán sanh già bệnh chết, học rộng, nghe nhiều, bảo vệ kho tàng chánh pháp, được lìa bỏ các dục như chim sổ lồng.
Lúc bấy giờ Phật Di Lặc muốn đến chỗ Trưởng Lão Đại Ca Diếp, Ngài cùng bốn chúng vân tập đến núi Kỳ Xà Quật và tất cả đều trông thấy Đại Ca Diếp trên đỉnh núi. Trong thâm tâm của đại chúng vô cùng kinh ngạc.
Đức Phật Di Lặc ngợi khen: Tỳ Kheo Đại Ca Diếp là vị đệ tử lớn của Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong đại chúng thường ca ngợi, tán thán hạnh Đầu Đà đệ nhất của thầy.
Thầy thông đạt thiền định giải thoát tam muội, mặc dầu có nhiều thần lực nhưng tâm không cao ngạo, còn làm cho chúng sanh được nhiều hoan hỷ. Thầy luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, hạ tiện, khổ não và cứu giúp họ hết khổ não, được an vui.
Đức Phật Di Lặc ngợi khen nhục thân của Đại Ca Diếp: Lành thay Đại Ca Diếp! Vị đại đệ tử của đấng có thần đức lớn Thích Ca Mâu Ni ở nơi đời xấu ác vẫn có thể giữ tâm tu tập. Mọi người thấy Phật Di Lặc ngợi khen Đại Ca Diếp nên có trăm ngàn ức người nhờ nhân này mà nhàm chán cuộc đời và đắc đạo.
Họ suy nghĩ: Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cuộc đời xấu ác đã giáo hóa vô lượng chúng sanh, làm cho họ được đầy đủ sáu thần thông, thành tựu đạo quả A La Hán. Đạo Tràng thuyết pháp rộng tám mươi do tuần, dài một trăm do tuần. Những người ở trong Đạo Tràng này hoặc đứng hoặc ngồi, hoặc gần hoặc xa đều tự thấy Phật ở ngay trước mặt và chỉ thuyết pháp cho riêng họ mà thôi.
Phật Di Lặc trụ thế sáu vạn năm. Ngài thương xót chúng sanh, làm cho họ được mắt pháp. Sau khi Ngài diệt độ, chánh pháp trụ ở đời cũng sáu vạn năm. Các ngươi hãy nên tinh tấn phát tâm thanh tịnh, phát khởi các nghiệp thiện, được gặp Phật Di Lặc như ngọn đèn sáng của thế gian, chắc chắn không nghi ngờ.
Đức Phật dạy Kinh này xong, Tôn Giả Xá Lợi Phất... đều hoan hỷ thọ trì, đảnh lễ Phật mà lui ra.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Kinh Tạp Tán
Phật Thuyết Kinh Bách Dụ - Kinh Thứ Ba - Kinh để đánh Vỡ đầu
Phật Thuyết Kinh Trung ấm - Phẩm Sáu - Phẩm Thần Túc
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Tám - Phẩm Lời Nói
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Giải Thoát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Phóng Quang Bát Nhã - Phẩm Mười Chín - Phẩm Hỏi Về đại Thừa
Phật Thuyết Kinh Hiền Ngu - Phẩm Sáu Mươi Sáu - Phẩm Bà Thế Chất