Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Lập Nguyện Xá Lợi Thân Biến
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI THỪA
ĐẠI BI PHÂN ĐÀ LỢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Cự, Đời Tây Tấn
PHẨM MƯỜI BẢY
PHẨM LẬP NGUYỆN XÁ LỢI
THÂN BIẾN
Sau khi con vào Niết Bàn, như có chúng sinh đem các vật báu cúng dường Xá Lợi, cho đến chỉ một lần niệm Nam Mô Phật, một lần lễ bái, một lần nhiễu quanh, một lần chấp tay, đem một cành hoa cúng dường, do nhân duyên ấy, tùy theo nghiệp đối với ba thừa đều được bất thoái chuyển.
Sau khi con vào Niết Bàn, như có chúng sinh trong giáo pháp của con đã giảng dạy thọ trì một giới cấm cho đến tụng đọc một bài kệ bốn câu lại thuyết giảng cho người khác nghe, nhân đó sinh tâm hoan hỷ cúng dường Pháp Sư, dù chỉ dâng một cành hoa, lạy một lạy, do nhân duyên này, tùy theo chỗ nguyện, đối với ba thừa đều được bất thoái chuyển.
Đến khi chánh pháp suy diệt, đèn đạo pháp tắt, cờ pháp ngã Xá Lợi của con vẫn ẩn tàng trong đất, an trụ trên Kim Luân. Lúc này Thế Giới Ta Bà không còn châu báu Xá Lợi của con sẽ thành ngọc Lưu Ly hiện ra như màu lửa, tên là Thắng Ý.
Tỏa ánh sáng chiếu khắp, từ nền Kim Cang lên đến tận Trời A Ca Ni Trá ở đó mưa xuống các thứ hoa như hoa Mạn Đà La, hoa Đại Mạn Đà La, hoa Ba Lợi Chất Đa Là Già, hoa Mạn Thù Sa, hoa Đại Mạn Thù Sa, hoa Lô Già Ma Na, hoa Đà La, hoa Đại Đà La.
Hoa Vô Cấu Luân, hoa trăm cánh, hoa ngàn cánh, hoa trăm ngàn cánh, hoa Phổ Quang, hoa Phổ Hương, hoa Thiện Lạc, hoa Tát Đa, hoa Lê Già Na, hoa Lạc Hạn Nguyệt Quang, hoa Minh Nguyệt, hoa Vô Lượng Sắc, hoa Vô Lượng Hương, hoa Vô Lượng Quang.
Nguyện có một trận mưa hoa lớn như thế, khiến cho các loài hoa đó phát ra các thứ âm thanh êm dịu, đó là: Tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng Ba Quy Y, tiếng Ưu Bà Tắc giới. Tiếng Tám giới thành tựu, tiếng xuất gia mười giới, tiếng bố thí, tiếng trì giới, tiếng phạm hạnh thanh tịnh, tiếng Đại Giới Cụ Túc, tiếng khuyến hóa, tiếng đọc tụng, tiếng thiền định tư duy, tiếng quán bất tịnh, tiếng theo dõi hơi thở ra vào, tiếng Phi Tưởng Xứ.
Tiếng vô sở hữu xứ, tiếng vô lượng thức xứ, tiếng vô lượng không xứ, tiếng thắng xứ, tiếng nhất thiết xứ, tiếng chỉ quán, tiếng không, tiếng vô tướng, tiếng vô nguyện, tiếng duyên khởi, tiếng phát ra đầy đủ tạng Thanh Văn, tiếng phát ra đầy đủ tạng Bích Chi Phật Thừa, tiếng nói lên đầy đủ Đại Thừa sáu Ba la mật.
Các thứ hoa kia đều phát ra những âm thanh như vậy, Chư Thiên nơi Sắc giới nghe được các âm thanh này mỗi người đều tự nhận thức: Nếu từ trước đã trồng căn lành thì liền nhớ lại, nếu có điều không lành thì tự hối trách, nên trở lại Thế Giới Ta Bà mà giáo hóa vô lượng chúng sinh, thuyết giảng mười nghiệp lành và làm cho họ an trụ trong đó.
Chư Thiên nơi Dục Giới cũng được nghe như thế, khiến tất cả đều xả bỏ tâm ý tham đắm năm dục đã có, các pháp sở tâm thảy được vắng lặng, nhớ trở lại căn lành đã có từ trước, hối trách những điều chẳng lành, từ Cõi Trời xuống Thế Giới Ta Bà giáo hóa vô lượng chúng sinh, thuyết giảng mười nghiệp thiện, khiến họ an trụ ở đấy.
Bạch Đức Thế Tôn, các hoa ấy, ở trong hư không sẽ biến ra vô số châu báu là vàng, bạc, Ma Ni, trân châu, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, mai khôi.
Xin mưa các vật báu như thế xuống tất cả nơi Thế Giới Ta Bà để diệt trừ hết những thứ sân si, tranh cãi, kiện tụng, đói kém, dịch bệnh, giặc giã, gió bão, các thứ độc hại, nơi nơi đều được yên lành, ổn định không còn các thứ khổ về chiến tranh, tật bệnh, đói khát. Tất cả cõi Ta Bà được an vui.
Chúng sinh nào gặp được, tiếp xúc với Xá Lợi báu, tùy ý làm vật cúng dường thì tất cả đều đến với Ba Thừa, được bất thoái chuyển. Các châu báu này đã được lợi ích như thế, sau đó trở lại chỗ cũ an trụ trên nền kim cương.
Bạch Đức Thế Tôn, khi gặp kiếp đao binh đói khát nổi lên thì cũng như trên. Trong hiền kiếp, sau khi con vào Niết Bàn, Xá Lợi của con sẽ làm Phật Sự, như vậy, khuyến hóa vô số chúng sinh đến với Ba Thừa, trụ bất thoái chuyển.
Như thể là sẽ ở trong vô số đại kiếp nhiều như vô số vi trần trong năm Cõi Phật Xá Lợi của con hóa độ vô số chúng sinh đối với giáo pháp của ba thừa đạt bất thoái chuyển.
Sau khi mãn một hằng hà sa số A tăng kỳ kiếp, những người ở trong vô lượng A tăng kỳ Thế Giới khác khắp mười phương đã ra đời và thành bậc Chánh Giác, đều là nhờ thời gian con hành hạnh Bồ Tát rồi cứng đắc quả vị bồ đề vô thượng, đã khuyến hóa họ phát tâm cầu đạo quả Giác Ngộ Tối Thượng, an trụ nơi Ba la mật.
Con thành đạo bồ đề rồi, đem giáo pháp giác ngộ ấy khuyên hóa chúng sinh, khiến họ phát tâm cầu đạo giải thoát an trụ nơi đó. Lại, sau khi con vào Niết Bàn, chúng sinh nhờ sự thần biến của Xá Lợi mà phát tâm cầu đạo quả giác ngộ.
Các chúng sinh này, trải qua hơn một ngàn hằng hà sa số A tăng kỳ kiếp ở trong vô lượng A tăng kỳ Thế Giới khác khắp mười phương đã ra đời, thành Phật, thảy đều tán thán, xưng tụng danh hiệu con và nói: Thuở quá khứ xa xưa, bấy giờ có kiếp tên là Hiền, vào đầu kiếp, có vị Thế Tôn thứ tư danh hiệu như thế, Ngài ấy trước đã đem bồ đề vô thượng khuyên hóa chúng con.
Dù chúng con khi ấy đang là những kẻ tâm ý bị phiền não thiêu đốt, tích tập các căn chẳng lành, tạo nghiệp vô gián, tà kiến… cũng điều khiến cho chúng con được an trụ nơi sáu pháp Ba la mật.
Do nhân duyên ấy, chúng con được chuyển nhập vào nhất thiết chủng trí, tu hành chánh pháp, chuyển xe pháp thâm diệu khiến cho hàng ức na do tha trăm ngàn chúng sinh được sinh lên Cõi Trời, hoặc an trụ đạo quả giải thoát.
Nếu có chúng sinh sau khi nghe Đức Như Lai kia xưng tụng, tán thán về con, muốn cầu đạo bồ đề, liền hỏi Đức Như Lai kia: Thưa Đức Thế Tôn, Đức Phật kia vì ý nghĩa gì, mục đích gì mà ở Thế Giới có đủ năm thứ ô trược, phiền não trói buộc nặng nề như thế thành tựu đạo quả Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng?
Các Đức Như Lai được hỏi đó sẽ vì những người thiện nam, tín nữ cầu đạo bồ đề, nói rằng: Đức Phật ấy ngày xưa đã thành tựu đại bi mới phát tâm cầu đạo bồ đề nhân duyên phát khởi bản nguyện ấy là làm cho Thế Giới trang nghiêm và thiện hạnh vi diệu.
Những thiện nam, tín nữ nghe xong vô cùng thán phục, khen ngợi chưa từng có, liền khởi tâm đại bi đối với chúng sinh và lập bản nguyện như vậy: Nguyện nhiếp độ tất cả chúng sinh trong Thế Giới có đủ năm thứ ô trược, chúng sinh nhiều kẻ tạo nghiệp vô gián, tích tập các căn, nghiệp chẳng lành…
Nguyện cho các Đức Phật Như Lai ấy cũng đem đạo quả bồ đề thọ ký cho những thiện nam, tín nữ khởi tâm đại bi cầu đạo bồ đề kia.
Những thiện nam, tín nữ ấy đã lập nguyện chọn lấy Cõi Phật có đủ năm thứ ô trược xấu ác, phiền não trói buộc nặng nề, tùy theo ý nguyện của họ.
Lại nữa, các Đức Phật Thế Tôn khác đem sự kiện thần biến của Xá Lợi con thuyết giảng rộng rãi cho những thiện nam, tín nữ cầu đạo bồ đề rằng: Thuở quá khứ xa xưa, có Đức Thánh danh hiệu như thế, sau khi vào Niết Bàn, Xá Lợi của Ngài lúc bấy giờ đã vì vô số chúng sinh khổ nạn trong kiếp đao binh, dịch bệnh, đói khát, nên thị hiện vô lượng các điều thần biến.
Nhờ Xá Lợi thần biến của Ngài mà chúng ta bước đầu tỏ ngộ được đạo bồ đề vô thượng, tích tập được các căn lành, rộng tu sáu pháp Ba la mật… như trước đã nói.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba