Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế âm đạo đà La Ni Thân - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẬT THUYẾT KINH
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
QUÁN THẾ ÂM ĐẠO ĐÀ LA NI THÂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
PHẦN HAI
Ấn một: Tổng Nhiếp Thân Án. Trước tiên đứng ngay thẳng thân mình, hai bàn chân đứng ngang nhau, chân phải hơi cong một chút. Đưa bàn tay trái duỗi xuống dưới. Đều co ngón vô danh, ngón giữa vào trong lòng bàn tay.
Duỗi bung ngón út, ngón trỏ, ngón cái rồi ngửa lòng bàn tay hướng lên trên. Tiếp, tay phải cũng vậy, nên co khuỷu tay sao cho cánh tay ngang rốn, hướng lòng bàn tay ra ngồi.
Nếu muốn giáng phục ma ốn, các nhóm ngoại đạo, rừng rậm tà kiến đưa vào chánh đạo, nên tác Ấn này, tụng Mẫu Đà La Ni hai mươi mốt biến ắt như ước nguyện.
Chú là:
Na mô Hạt la đát na đá la dạa gia Na mô A lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp phạt la gia bồ đề tát đỏa gia Ma ha tát đỏa gia Ma ha ca lô ni ca gia Đát điệt tha A bạt đà, A bạt đà bạt lị bạt đế yên hê di hê sa ha.
NAMO RATNATRAYÀYA.
NAMAHÏ ÀRỲYA AVALOKITE’SVARÀYA.
BODDHISATVÀYA MAHÀ SATVÀYA MAHÀ KÀRUNÏI KÀYA.
TADYATHÀ: OMÏ ABÀDHA ABÀDHA PARIPATI EHYEHI.
SVÀHÀ.
Ấn hai: Tổng Trì Đà La Ni Án.
Dựa theo Thân Ấn lúc trước. Chắp hai tay lại để ngang trái tim. Đem ngón giữa, ngón vô danh, ngón út cài chéo nhau sao cho bên trái đè bên phải.
Dựng thẳng hai ngón trỏ sao cho đầu ngón dính nhau. Dựng thẳng hai ngón cái đè vạch thứ nhất của ngón trỏ rồi hơi mở lòng bàn tay.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện tác Ấn này sẽ tùy được diệt trừ tội chướng nghiệp ác của vô lượng kiếp sinh tử sau này, chỉ một thời tiêu diệt hết. Ngày sau vãng sinh về mười phương Tĩnh Thổ.
Đức Thích Ca Mâu Nhi Phật, xưa kia lúc mới ngồi dưới cây Bồ Đề bị các Ma Vương gây não loạn, cũng tác Ấn này, đắc được an lạc.
Ấn ba: Giải Thốt Thiền Định Án. Trước tiên trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay để trên đỉnh đầu. Có hai ngón trỏ sao cho đầu ngón dính nhau, hai ngón cái đè trên vạch thứ hai của ngón trỏ.
Ấn này, hết thảy Chư Phật đời quá khứ cũng đồng tu pháp môn này đều được thiền định giải thốt Tam Ma Địa.
Nếu thường kết Định Ấn này mà cúng dường sẽ mau thấy sự thiền định của tất cả Chư Phật ở mười phương.
Chú là:
Đát điệt tha: Tát bà Đà La Ni Mạn trà la gia yên hê di hê Bát la ma thâu đà tát đá bả gia Sa phộc ha.
TADYATHÀ: SARVA DHÀRANÏÌ MANÏDÏALÀYA EHYEHI.
PARAMA ‘SUDDHASATVÀYA SVÀHÀ.
Ấn bốn: Thiên Nhãn Ấn Chú.
Đứng thẳng hai chân song song nhau. Trước tiên đem các ngón giữa, ngón vô danh, ngón út đều áp dính lưng nhau, Dựng thẳng hai ngón trỏ sao cho đầu ngón dính nhau.
Nghiêng hai ngón cái đè cạnh trên vạch thứ hai của ngón trỏ. Mở cổ tay cách nhau năm thốn rồi đặt ở My gian Tam Tinh.
Nếu thường tác Ấn chú pháp môn này dần dần được quán thấy một trăm vạn bốn mươi ngàn Bồ Tát cùng với hành giả đồng làm bạn lữ. Nếu chưa trải qua ba Mạn Trà La pháp môn ắt đừng cho thấy Ấn pháp môn này.
Chú là:
Án Tát bà chước sô già la gia Đà La Ni Nhân địa lị gia Sa ha.
OMÏ SARVA CAKSÏU GARJA DHÀRANÏÌ INDRÌYA.
SVÀHÀ.
Ấn năm: Tổng Nhiếp Án.
Đứng thẳng hai chân song song nhau. Trước tiên ngửa lòng bàn tay phải sao cho năm ngón đều phụ nhau. Sau đó ngửa lòng bàn tay trái đè trên lòng bàn tay rồi để dính ngang trái tim.
Ấn này có sức mạnh hay tồi phục tất cả Ma ốn trong ba ngàn đại thiên Thế Giới.
Chú là:
Đát điệt tha Bà lô chỉ đế nhiếp phạt la gia tát bà nột sắt đa Ô ha gia di Sa ha.
TADYATHÀ: AVALOKITE’SVARÀYA SARVA DUSÏTÏA.
UHAYA ME SVÀHÀ.
Ấn sáu: Thông Đạt Tam Muội Án.
Đứng thẳng sao cho hai gót chân dính nhau. Trước tiên tay trái dựng năm ngón cùng nắm nhau, co khuỷu tay hướng về phía trước rồi tách ra. Tiếp tay phải cũng vậy, co khuỷu tay hướng vào bên trong rồi tách ra.
Ấn này hay khiến cho thông đạt tất cả Tam Muội Trí Ấn, trang nghiêm tám mươi bốn ngàn pháp môn.
Các pháp môn ấy đều nhân pháp minh này mà thấy Tam Miệu Tam Bồ Đề Samyak samïbuddhi Chính Đẳng Giác. Dùng Đại Thân Chú.
Ấn bảy: Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Thần Quỷ Tập Hội Án.
Đứng thẳng kèm hai chân song song. Chắp tay để ngang trái tim. Đều co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay. Tiếp co hai ngón vô danh đều vịn trên móng hai ngón cái.
Dựng thẳng hai ngón út, hai ngón giữa sao cho đầu ngón dính nhau, hợp cổ tay dính nhau, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Án Tát bà đề bà ma già A na lị Sa ha.
OMÏ SARVA DEVA NÀGA ANALE SVÀHÀ.
Ấn tám: Hô Triệu Đại Phạm Thiên Vương Cập với Kiều Thi Ca Lai Vấn Pháp Án.
Dựa theo ấn trước, mở cổ tay. Để cạnh bàn tay dính nhau rồi ngửa lòng bàn tay. Đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Án Ma ha phạm ma gia yêu hê di hê Sa ha.
OMÏ MAHÀ BRÀHMÀYA EHYEHI SVÀHÀ.
Ấn Chú Pháp này hay nhiếp vô lượng vô số Đà La Ni Ấn. Các chi pháp môn đều đến tập hội.
Nếu lúc Nhật Nguyệt Thực thời chú vào bơ một trăm lẻ tám biến, dùng Ấn ấn lên bơ rồi ăn thì khiến cho người diệt chướng được thông minh. Đối với thân đang sống, mỗi ngày tụng một vạn bài kệ.
Ấn Pháp Tôn này do Nhật Tạng Như Lai truyền thọ cho Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ấn chín: Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Án.
Đứng thẳng chắp tay để ngang trái tim. Co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay.
Duỗi thẳng bốn ngón còn lại, rồi chắp tay để ngang trái tim, tụng Đại Thân Chú hai mươi mốt biến, quyết định sẽ đi đến cung điện của Chư Thiên dạo chơi các quốc thổ của Phật ở mười phương, trăm ngàn trân bảo tùy tâm đều được cúng dường Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, tất cả Thánh Chúng.
Nếu có ước muốn tác pháp môn này nên mỗi ngày vào buổi sáng sớm, tắm gội sạch sẽ, tác ấn pháp này ắt sẽ được nhìn thấy hằng hà sa số quốc thổ Chư Phật ở mười phương, cũng được diệt trừ nghiệp ác, tội nặng trong vô lượng kiếp sinh tử. Chính vì thế cho nên khen ngợi công đức như vậy.
Ấn mười: Khất Nguyện Tùy Tâm Án.
Dựa theo Ấn trước. Co hai ngón trỏ đè trên móng hai ngón cái sao cho ngón trỏ áp dính lưng móng. Dùng Thân Chú lúc trước. Nếu có người tùy theo các nguyện mong cầu thảy đều đầy đủ, quyết định chẳng lui đạo bồ đề.
Ấn mười một: Nhập Diệt Tận Định Tam Muội Án.
Dựa theo Ấn trước. Dựng thẳng, bung ngón trỏ, ngón cái, mở lòng bàn tay.
Ấn này lúc Ta ở tại Nhân Địa thì có hằng hà sa số Chư Phật truyền cho ta ấn này khiến ta chứng được đạo A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Dùng Đại Thần Chú.
Ấn mười hai: Thỉnh Phật Tam Muội Án.
Dựa theo Ấn trước, chắp tay để ngang trái tim, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Án Tát bà bột đà Tam ma gia yên hê di hê Bát la ma thâu đà tát đỏa Sa ha.
OMÏ SARVA BUDDHA SAMAYA EHYEHI PARAMA.
‘SUDDHA SATVA SVÀHÀ.
PHÁP VẼ ĐÀN
Tiếp lại bạch rằng: Thế Tôn! Quảng Đại Thần biến Mẫu Đà La Ni chú Ấn pháp môn này hay ở vào thời Mạt Thế sau này làm cho các Chú Giả mau được thấy rõ Chú Đàn, Bình đẳng vô đẳng Tam Muội Gia thuộc chủng tộc của tất cả Như Lai.
Người trì pháp ấy thường giữ miệng kín đáo, răn đe các luận điệu phiến diện. Đừng vọng diễn mọi loại thần thông, Tam Muội, cảnh tướng trong Đà La Ni ấy.
Tĩnh Tâm cố gắng ngưng niệm không cho phút chốc lại rối loạn, huyễn hoặc nơi người khác, tham lợi cầu nói, bên ngồi hiển thị tướng khác lạ. Diệt được sự gây tạo ác ấy mới được thành tựu.
Nếu chẳng dùng tâm Chân Tịnh mà tu tập thì công sức bỏ ra đều hư hỏng, lại chịu mọi khổ não, vĩnh viễn không thành hiện thực.
Thế Tôn! Nên biết người ấy cần thường tinh tiến, thủ trì tĩnh giới trai pháp thanh tịnh, chẳng ăn Ngũ tân, uống rượu, ăn thịt với ăn thức ăn dư thừa. Cũng chẳng nói lời ly gián, nịnh hót, dối gạt, ganh ghét, đố kỵ, với ăn trộm Đàn, Ấn, Chú, Pháp, Cú của các Bộ.
Nếu phạm phải lỗi lầm ấy tức bị tất cả Chư Phật Bồ Tát bỏ rơi. Con Quán Thế Âm Bồ Tát cũng bỏ rơi chẳng vui quán nhiếp.
Thế Tôn! Nên biết người đó đã phá tĩnh giới của Chư Phật, đoạn diệt tất cả: Chánh pháp, các chi thiện tướng của Tam Bảo. Người như vậy thường cùng với tất cả Thiên Ma, Quỷ Thần, Ngoại đạo, Tỳ Na Dạ Ca đồng nhiếp một cõi, đồng trụ một nghiệp, vĩnh viễn khômg có y theo sự hộ giúp, Chư Thánh cũng chẳng cứu thốt được.
Luôn bị tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh, Thiên Tiên chê trách bỏ rơi như người bị hết pháp làm nhơ đạo cho dù người ấy suốt ngày đều thường niệm Đà La Ni này.
Thế Tôn! Con thấy người đó vĩnh viễn không thành tựu. Sự chẳng thành ấy chẳng phải là lỗi của con. Ấy là lỗi của mình chứ không phải là lỗi của người khác.
Do nghĩa này mà chẳng nên đem Đà La Ni Pháp này với các Đà La Ni Pháp để cho người ấy thấy nghe Kinh Quyển, đọc tụng, thọ trì mà nên đem cho người giữ hạnh Tĩnh phạm, tâm có đủ từ bi thương xót chúng sinh, hạnh nghi không có nịnh hót, cầu bồ đề …
Viết chép, đọc tụng, như pháp thọ trì ắt được thành tựu Mẫu Đà La Ni Man Noa La …
Pháp này với Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ấy là tối tôn tối thượng Bí Mật Tâm Vương.
Chính vì thế cho nên Chú Giả phải dùng tâm Đại tinh tiến chân thật, buông xả hết thân phần, chi tiết, xương, thịt, gân, tủy, đầu, mắt … thảy đều bố thí cho người khác.
Cầu tìm pháp này thường siêng năng tu hành huống chi mọi thứ trân bảo, lúa gạo, lụa là, quần áo, giường nằm, thuốc thang … chỉ là tiền của bên ngồi ngoại tài.
Vì pháp của Man Trà La Ấn, Tượng thuộc Mẫu Đà La Ni giải thốt này mà chẳng chịu buông bỏ?!
Cho đến thường y theo Thầy cần tu học lại chẳng dám buông xả ngoại tài sao?
Tại sao vậy?
Vì pháp giải thốt hay cho tứ sinh hữu tình ở đời Mạt Thế làm Đại Phật Sự, chính kiến, chính hạnh, chính nghiệp, chính tinh tiến, chính Kiến là phần hướng dến nơi chốn của Đạo Giải Thốt.
Mạn Noa La Manïadïala Đàn trường ấy nên ở trong Chùa, hoặc ở sườn núi, hoặc ở bên ao, suối, rừng.
Làm hình vuông hay hình tròn rộng tám khuỷu tay, đào xuống loại bỏ rễ, cây, đất ác, gạch ngói, đá, xương rồi dùng đất tốt nén chặt nện cho bằng phẳng và dựng cái nền rộng một khuỷu tay.
Lại lấy Cù Ma Di, nước thơm hòa với đất màu vàng làm bùn rồi như pháp xoa tô chia làm bốn viện. Viện trong ngồi đều mở bốn cửa.
Chính giữa làm một viện hình vuông rộng bốn khuỷu tay, ở trên tâm của viện vẽ một bánh xe báu có một trăm lẻ cây căm trong một hình vuông tròn rộng hai khuỷu tay. Lại ở trên tâm của bánh xe báu vẽ một hoa sen bảy báu với ba mươi hai cánh nở lớn.
Lại quanh bánh xe, ở bốn bên phía ngồi nên vẽ lửa rực ở bốn góc cửa viện, mỗi góc đều vẽ một hoa sen hé nở. Trên bốn đài hoa đều vẽ một viên ngọc Như Ý, ở trên bốn viên gọc vẽ lửa rực khắp.
Lại ở trên đài của hoa sen lớn có ba mươi hai cánh để một tượng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bằng Bạch Chiên Đàn.
Tiếp đến Viện thứ hai rộng một khuỷu tay, bốn mặt đều chia làm tám vách. Vách ở bốn góc đều vẽ một hoa sen hé nở, lại ở trên Đàn của mỗi một hoa sen đều vẽ một tòa Tu Di có ba bậc.
Trước hết ở trên tòa của góc Đông Bắc vẽ Đại Tự Tại Thiên Vương ngồi. Tiếp ở trên tỏa của góc Đông Nam vẽ Na La Diên Thiên ngồi. Tiếp ở trên tòa của góc Tây Nam vẽ Đại Phạm Thiên Vương ngồi.
Tiếp ở trên tòa của góc Tây Bắc vẽ Đế Thích Thiên Vương ngồi.
Lại ở vách của bốn mặt đều vẽ mười sáu vòng hoa kết bằng hoa báu.
Tiếp đến Viện thứ ba, rộng hai khuỷu tay chỉ vẽ sợi Kim Thằng màu xanh với giới đạo được trang nghiêm bằng hoa vàng.
Tiếp đến Viện thứ tư cũng rộng hai khuỷu tay. Lại ở bốn mặt đều chia làm hai mươi tám vách. Ở mỗi một vách đều vẽ hoa sen hé nở.
Tiếp lại ở trên mỗi một đài hoa sen đều vẽ riêng Kim Cương Xử Ấn, Tam Cổ Xoa Ấn, Việt Phủ Ấn, Đao Ấn, Kiếm Ấn, Loa Ấn, Phục Đột Ấn, Quyến Sách Ấn, Bổng Ấn, Chùy Ấn, Tản Cái Ấn, Như Ý Châu Ấn, Diêm La Vương Bổng Ấn, Tỳ Na Dạ Ca Bổng Ấn, Sóc Ấn, Luân Ấn với mọi loại Thủ Ấn. Trên các ấn này đều vẽ lửa rực vây quanh.
Lại ở trong vách của cửa Nam vẽ Diễm Ma Vương. Tiếp trong vách của cửa Tây vẽ Thủy Thiên Thần. Tiếp trong vách của cửa Bắc vẽ Câu Phát La Vô Kế Thiết La Thiên Thần.
Tiếp trong vách cửa Đông vẽ Câu Ma La Thiên Thần. Tiếp ở bốn góc đều y theo bản vị vẽ bốn Thiên Vương Thần với mặt, mắt hiển tướng đại sân nộ. Và vẽ Thần Bộc Tòng thuộc hạ của mỗi vị Thiên Vương.
Tiếp đến Viện thứ năm cũng rộng hai khuỷu tay. Ở bốn mặt đều vẽ một trăm lẻ tám loại gồm mỗi loại cây có quả, cây có hoa, cây báu. Lại ở bốn góc đều vẽ một núi Tu Di báu. Ở trong bốn cửa đều vẽ nước của bốn biển lớn.
Đất của Viện bên trong, Viện bên ngồi của Đàn ấy đều dùng màu xanh. Đẳng giới bên trong bên ngồi của Đàn rộng ba thốn ba tấc Tàu, khắp ở trên Giới vẽ Kim Cương Xử Ấn dựng đầu với tướng đầu nhọn bén.
Lại ở cái thềm bên cạnh bậc Nam của cửa Tây mở một cái cửa cho Chú Giả ra vào. Lại ở chính giữa Đàn treo đặt tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm hướng mặt về phương Đông.
Lại đem Thiên Thủ Thiên Nhãn Kinh đặt ở trước tượng Bạch Đàn trên hoa sen ba mươi hai cánh. Đem nước Bạch Đàn Hương rót vào mười hai cái chén nhỏ, đặt mọi loại Tam Bạch thực, quả trái vào hai năm cái bát.
Rót nước thơm vào hai mươi năm cái ống và trên miệng cắm các cây có hoa và lụa ngũ sắc với mọi loại vòng hoa gồm hai mươi cái. Đèn bơ, đèn dầu gồm có hai mươi tám dĩa, dầu thơm, bột hương với các loại hương bày chung thành mười xấp xếp chồng lên nhau.
Thần phan của Bồ Tát, phướng lụa ngũ sắc xếp đặt chung thành hai mươi năm đường. Các thứ ống, vật đựng, xấp như vậy đều dùng vật bằng vàng, vật bằng bạc, vật bằng đồng.
Nếu không có đồ thật thì dùng đồ giả nhưng vẫn phải đầy đủ. Đẳng vật như thế đều trưng bày như pháp ở bốn mặt của Viện trong ngồi. Treo các phan, hoa.
Lại dùng lụa ngũ sắc, hoa gạo, hạt cải trắng với các loại hoa tạp rải ở trên Đàn. Các thức ăn uống mỗi ngày phải thanh khiết, làm thức mới tốt, đặt bày cúng dường.
Chú Pháp Sư ấy mỗi ngày ra vào phải tắm rửa sạch sẽ, dùng dầu thơm xoa thân, mặc quần áo mới, ăn Tam Bạch Thực, Đốt Chiên Đàn Hương, Long Não hương… ngày ngày ba thời cúng dường tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại ở bên trong, trước tượng của Viện thứ ba, mỗi thời tự thề thọ Bồ Tát Tam Luật Nghi Giới.
Vào lúc ban ngày, lúc ban đêm đều ở cửa Tây của Viện ngồi, ngồi Kiết Già, Tụng Mẫu Đà La Ni một ngàn lẻ tám biến, mỗi ngày thường chẳng giÁn đoạn, đến hết ngày hai mươi mốt thì khởi ý cúng dường.
Lại ở sáu thời, từ cửa cạnh Tây của Đàn, đi vào bên trong Đàn, đứng trụ ở cửa Tây của Viện thứ ba kết Ấn thứ nhất, Ấn thứ hai, Ấn thứ ba cho đến Ấn thứ mười hai là Thỉnh Phật Tam Muội Gia Ấn.
Tác khắp Ấn trước đều tụng Chú bảy biến cho đến Ấn thứ mười hai thì hồn tất. Cần phải tự thề phát thú hướng chẳng thối lui nguyện của Tâm Bồ Đề Kiên cố. Xong thường chí thành tác pháp hô triệu tất cả đều đến.
Nên ngồi ngay thẳng dùng tâm quyết định, tưởng tất cả các Chú Thần như ở ngay trước mắt, mỗi mỗi không có vách che chướng, chẳng được có cảnh khác, tụng Đại Thân Chú lúc trước mãn hai mươi mốt ngày đêm, ở trên tượng ấy phóng tỏa Ánh sáng lớn lại được Quán Thế Âm Bồ Tát quyết định hiện thân.
Nếu thấy Thân đến sẽ hóa hiện thành thân tướng của A Nan với diện mạo tươi cười, đi đến hỏi hành giả tu theo nguyện nào.
Chú Giả đã tỏ tường liền ngưỡng bạch với Thánh Giả: Vì cầu Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề Mẫu Đà La Ni Tam Ma Địa Pháp. Lại nguyện tất cả Đàn Ấn, Chú Pháp thảy đều thành tựu, tất cả Quỷ Thần đều thuận phục hết.
Được như nguyện xong chỉ tự mình biết, đừng để lộ ra ngồi hay hướng về người mà vọng truyền nói. Được chứng ấy xong, người này liền có thể dùng đại bi để cứu trị thế gian.
Một Đàn Pháp này có thể vẽ trên tấm lụa trắng hoặc vẽ trên miếng vải mịn cũng được.
Nếu muốn cầu tất cả nguyện nên làm một Thủy Man Noa la Thủy Đàn rộng bốn khuỷu tay. Chính giữa vẽ hoa sen, đốt Trầm Thủy hương, tụng Thân chú lúc trước một ngàn lẻ tám biến, tác Ấn Khất Nguyện thứ mười liền được tất cả nguyện xứng đầy đủ với Tâm.
Nếu muốn tất cả người vui vẻ, tác Ấn thứ chín Hoan Hỷ Ma Ni Tùy Ý Minh Châu Ấn, tụng Đại Thân Chú chú vào mè đen hai mốt biến. Lại một lần chú một lần thiêu đốt, mãn một ngàn lẻ tám biến liền được tất cả vui vẻ như nguyện.
Nếu muốn La Nhạ Ràja Vua Chúa vui vẻ nên lấy cành Dương Liễu trong vườn của La Nhạ, chú hai mươi mốt biến rồi ném đặt trong vườn liền được vui vẻ.
Nếu muốn giáng phục người ác, oan gia, nên chú vào cây Khổ Luyện hai mươi mốt biến, cứ trì một Chú thì một lần thiêu đốt, mãn một trăm lẻ tám biến liền được quy phục.
Nếu có Thần, Quỷ, kẻ khó giáng phục. Lấy An Tất Hương hòa với hạt cải trắng, chú hai mươi mốt biến. Lại một lần Chú thì một lần thiêu đốt, mãn một trăm lẻ biến hay khiến tất cả Quỷ Thần tự nhiên thần phục.
Nếu có thành ấp bị bệnh dịch, nên làm một cái Thủy mạn Noa La, lấy Ngưu Tô tốt chú một trăm lẻ tám biến.
Cứ trì một Chú thì một lần thiêu đốt, mãn một ngàn lẻ tám biến tức tất cả tai dịch thảy đều tiêu diệt. Lại lấy chút ít bơ đem cho người bị bệnh dịch ăn thì người ấy tùy được khỏi bệnh.
Xưa kia nước Kế Tân bị bệnh dịch lưu hành. Người bị bệnh chẳng qua được một, hai ngày thì đã chết.
Có vị Bà La Môn Chân Đế khởi đại từ bi ban cho pháp môn này cứu chữa nên bệnh dịch của một nước ứng thời tiêu diệt. Hành bệnh Quỷ Vương ấy ứng thời ra khỏi nước, nên biết mà nghiệm vậy.
Nếu có nước khác xâm lấn, trộm cướp, nghịch loạn khởi đến. Tác Ấn thứ nhất Tổng Nhiếp Thân Ấn, chú một lẻ tám biến ắt các trộm cướp tự nhiên diệt hết.
Nếu có nam tử, nữ nhân mà tất cả nghiệp báo mệnh căn đã hết. Nếu tác Diệt Tận Định Ấn, ngày ngày cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương, tụng Chú. Cứ một lần Chú thì một lần xưng danh tự của người, mãn một ngàn lẻ tám biến liền được chuyển nghiệp chướng ấy.
Xưa kia, nước Ba La Nại có một vị trưởng giả chỉ có một đức con mà tuổi thọ chỉ được mười sáu năm. Đến năm mười năm, vợ chồng trưởng giả buồn rầu, tiều tụy, mặt không có quang trạch khí sắc tốt.
Có vị Bà La Môn đi đến cửa xin ăn, nhìn thấy trưởng giả nên hỏi rằng: Vì chuyện gì mà chẳng được vui?
Trưởng Giả nói đủ như trên.
Vì nhân duyên ấy, Bà La Môn đáp rằng: Trưởng Giả! Đừng nên buồn rầu! Chỉ lấy pháp xử phân của Bần đạo mà hộ cho đứa con thì nó sẽ được sống lâu không bị chết yểu.
Khi ấy, Bà La Môn tác pháp môn này mãn bảy ngày đêm thì được Vua Diêm La báo rằng: Mệnh căn của đứa con của vị trưởng giả chỉ được mười năm năm.
Nay đã mười năm năm, chỉ còn có một năm. Nhờ gặp duyên lành nên được sống tới tám mươi tuổi, nên mới đến báo tin. Bấy giờ, vợ chồng trưởng giả vui mừng hớn hở, xả bỏ gia tư, cúng thí Phật Pháp Tăng. Nên biết pháp này có đủ Đại Thần nghiệm chẳng thể luận bàn.
Trước hết đã từng vào Đô Hội Tâm Mạn Noa La Kim Cương Đại Đạo Trường. Chẳng nên tác Đại Mạn Noa La, chỉ làm Thủy Đàn, kết Ấn, tụng Chú thì không có nguyện gì chẳng được quả, mau chóng thành Phật.
Nếu có người nữ, lúc sinh đẻ chịu đại khổ não. Nên chú vào bơ hai mươi mốt biến khiến người ấy ăn ắt quyết định bảo mệnh, an vui sinh đẻ.
Dù sinh con trai hay con gái đều có đủ đại tướng hảo, mọi thiện trang nghiêm. Đời trước gieo trồng gốc Đức nên được mọi người yêu kính, thường ở trong nhân gian thọ nhận khối lạc thù thắng.
Nếu có chúng sinh bị bệnh về mắt. Chú Pháp Sư ấy kết Bồ Tát Thiên Nhãn ấn, chú hai mươi mốt biến rồi đem Ấn ấn lên con mắt tức liền khỏi bệnh đau mắt.
Do nhân duyên này nên người ấy sẽ được thiên nhãn vô biên, nhìn thấy suốt Chư Thiên, thọ nhận khối lạc của Cõi Trời.
Nếu vẽ tượng biến của Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, nên dùng mảnh lụa trắng khổ rộng mười khuỷu tay hay hai mươi khuỷu tay.
Thân của Bồ Tát vẽ màu vàng Diêm Phù Đề, mặt có ba mắt, tay có một ngàn bàn tay, ở mỗi lòng bàn tay đều có một con mắt, đầu đội mão báu, mão có vị Hóa Phật. Bàn tay lớn chính có mười tám cánh tay.
Trước tiên là hai tay để ngang trái tim chắp lại, một bàn tay cầm chày Kim Cương, một bàn tay cầm Tam Kích Xoa, một bàn tay nắm Phạm Lai, một bàn tay nắm cái Ấn Báu, một bàn tay cầm cây Thiết Trượng, một bàn tay nâng viên ngọc báu, một bàn tay cầm bánh xe báu, một bàn tay cầm hoa sen hé nở, một bàn tay cầm sợi dây, một bàn tay cầm cành Dương Liễu, một bàn tay cầm tràng hạt, một bàn tay cầm cái bình Táo Quán, một bàn tay ban nước Cam Lộ tuôn chảy, một bàn tay tuôn mọi loại mưa báu ban cho sự không sợ hãi.
Lại dùng hai bàn tay để ngang rốn, bên phải đè bên trái, ngửa lòng bàn tay. Chín trăm tám mươi hai bàn tay còn lại ở trong bàn tay đều nắm Ấn của mọi loại khí trượng.
Hoặc đơn kết tay Ấn thảy đều chẳng đồng như Tâm Kinh nói. Cổ tay mỗi mỗi đều đeo vòng xuyến, thân khốc áo báu màu nhiệm của Cõi Trời, cổ đeo anh lạc.
Trong màu sắc đừng hòa keo nấu bằng da thú, nước dùng hòa chung thường dùng sữa thơm, keo thơm điều hòa.
Lại có một bản ghi rằng: Đất này không có lụa trắng tốt xong lấy một khổ vải trắng cũng được. Thân Bồ Tát trên đồ họa nên dài năm xích năm thước Tàu có hai cánh tay y theo Thiên Tý Ấn pháp thứ năm lúc trước cũng được rồi cúng dường, chẳng cần yếu có ngàn tay ngàn mắt. Điều này y theo bản Phạn chỉ ở trên vầng trán của Bồ Tát lại đặt một con mắt.
Nếu muốn thọ trì Mẫu Đà La Ni Đại pháp môn. Trước tiên nên vẽ tượng. Như lúc vẽ tượng ắt như pháp nghiêm sức thanh tịnh hình vuông tròn ở trong thất, dùng nước Bạch Đàn Hương xoa tô đất ấy làm Mạn Noa La.
Người thợ vẽ lúc vẽ thời ra vào tắm gội sạch sẽ tinh khiết, thân mặc áo sạch mới, mỗi ngày lúc trời sáng thọ tám Trai giới.
Như pháp vẽ tượng xong, nếu Chú Pháp Sư và người thợ vẽ sợ có nhiều ô uế chẳng như pháp thì nên như pháp làm một Mạn Noa La tùy tâm rộng bốn khuỷu tay, dùng mọi thứ phướng, hoa, thức ăn uống, thức ăn Tam Bạch thực, quả trái, hương, nước, mọi thứ hoa màu đặt bày vòng quanh rộng làm cúng dường.
Chú Pháp Sư và người thợ vẽ ấy nên thường mỗi ngày chia ba thời ở trước tượng sám hối tội lỗi, mãn hai mươi mốt ngày đêm.
Tượng Thiên Thủ Thiên Nhãn ấy liền phóng tỏa ánh sáng lớn ví như mặt trời mặt trăng, vô lượng vô biên chiếu soi khiến cho ba ngàn Đại Thiên Thế Giới của Phật ở mười phương thảy đều sáng tỏ.
Chú Pháp Sư với người thợ vẽ và các chúng sinh gặp được ánh sáng này thì tội nặng cực lớn, một thời tiêu diệt hoặc được thanh tịnh.
Thế Tôn! Người tác pháp này chỉ trừ kẻ chẳng chí tâm. Con cũng thường thấy Đức Phật Tỳ Bà Thi ở đời quá khứ hiện Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Thắng Ma Thân này.
Thế Tôn! Nay con lại hiện Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Thắng Ma Thân ấy, Ở trong ngàn cánh tay đều hiện hóa ra một vị Chuyển Luân Vương tương đồng với một ngàn đời Chuyển Luân Vương ở thời hiền kiếp.
Ở trong ngàn tay ngàn mắt hiện hóa ra một vị Phật tương đống với một ngàn vị Phật xuất hiện ở thời hiền kiếp.
Thế Tôn! Trong Bồ Tát Giáng Ma Thân thì thân này là tối vi thượng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Ta dùng thần lực đến tận bờ mé của đời tương lai gia bị cho Mẫu Đà La Ni của ông.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Đức Phật khen xong liền vui mừng hớn hở, chắp tay chiêm ngưỡng Đức Phật rồi bạch rằng: Thế Tôn! Lại có Thiên Thủ Thiên Nhãn Đà La Ni Thành Tựu Ấn Pháp. Con lại muốn nói.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Ta đã tùy hỷ. Ông hãy nói đi.
Thời Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát liền nói Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Thành Tựu Pháp Ấn.
Ấn thứ mười ba: Biện Tài Án.
Đặt hai tay chung lưng rồi chắp lại. Hướng ngón cái về phía trước duỗi ra.
Ấn này hay tự hộ, hộ cho người khác. Cần phải Kết Giới tùy theo phương đi đến. Trì, dùng nước sạch hoặc tro sạch đều chú bảy biến. Ở ngay trú xứ dùng nước, dùng tro.
Trước tiên tự rải lên thân mình sau đó hướng đến bốn phương bốn góc như pháp rưới vảy liền thành Kết Giới.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện bị các chúng quỷ ác, võng lượng, tà, gây mê hoặc rối loạn thì lấy cành thạch lựu, cành dương liễu, âm thầm tụng chú này đánh nhẹ vào bệnh nhân ắt không có bệnh gì không khỏi.
Chú là:
Nam mô Tát bà bột đà, đạt ma, tăng kỳ tỳ gia Nam mô A lợi già ba lô chỉ đế nhiếp phạt la tả Bồ Đề tát đa bả tả Nam mô bạt chiết la bả ni tả Bồ Đề tát đa bả tả Đát địa tha Đồ tỳ, đồ tỳ ca gia, đồ tỳ Sa la bà la ni Cấp bá ha.
NAMO SARVA BUDDHA DHARMA SANÕGHEBHYAHÏ.
NAMAHÏ VAJRA PÀNÏIYA BODDHISATVÀYA.
TADYATHÀ: DHUPE, DHUPEKÀYA DHUPE PRAJVALANÏI SVÀHÀ.
Chú Ấn này có sức mạnh hay giáng phục tất cả ngoại đạo tà kiến.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện hay thường vào lúc mặt trời mới mọc và lúc mặt trời lặn đều tụng hai mươi mốt biến.
Liền đem mọi thứ trân bảo, hoa, hương, thức ăn uống cúng dường mười ức Chư Phật không có khác. Nếu sau khi chết vĩnh viễn xa lìa ba nẻo ác, chẳng thọ thân nữ, tùy được Vãng Sinh về nước của Phật A Di Đà.
Đức Như Lai trao tay, xoa đỉnh đầu bảo rằng: Ngươi đừng sợ hãi, sinh về nước của ta rồi, hiện thân chẳng bị chết đột ngột, chẳng bị quỷ thần gây hại.
Ấn thứ mười bốn: Tối Tam Thiên Đại Thiên Giới Diệt Tội Ấn Tối: Phá vỡ thành mảnh vụn. Đứng thẳng, co khuỷu tay trái hướng về phía trước, hơi mở năm ngón gần nhau, dựng thẳng bàn tay đưa lòng bàn tay ra ngồi.
Tiếp, co ngang ngón cái của tay phải vào lòng bàn tay, bốn ngón còn lại nắm quyền rồi đặt trên tai phải. Nên tụng Thân Chú, đưa ngón trỏ qua lại.
Nếu hay mỗi ngày ba thời, kết Ấn này, tụng Mẫu Đà La Ni bảy biến thì hay diệt bốn tội nặng, năm tội nghịch.
Lại đối với tất cả chúng sinh khởi tâm từ bi liền được thiêu cháy với tất cả tội căn. Sau khi thân này diệt lại được về thẳng Cõi Phật.
Ở Phật thổ ấy được làm Chuyển Luân Vương, lại chứng Đà La Ni tên là: Vô Tận Diệt Tam Muội Trí, lại được thân có đủ hai mươi tám tướng. Thân đời này chẳng bị đau mắt, lưỡi… cho đến tất cả các bệnh tật trong thân. Đại tội của nhóm nghiệp lúc trước đều tiêu diệt hết.
Nếu trời hạn hán thì lấy Ô Ma Tử hồ với dầu Tỳ Ma Tử làm thành viên, chú một trăm lẻ tám biến rồi ném vào chỗ nước ao. Tức Trời liền tuôn mưa lớn.
Nếu mưa nhiều nên lấy thóc lúa sao rang làm hoa, hòa với dầu rau cải thìa làm thành viên, chú một trăm lẻ tám biến rồi ném vào nước ao thì mưa ấy liền ngưng.
Ấn thứ mười năm: Giáng Phục Tam Thiên Đại Thiên Giới Ma Oán Án.
Đem năm ngón tay cài chéo nhau, bên phải đè bên trái rồi nắm chặt thành quyền. Nên đặt trên đỉnh đầu, tụng Đại Thân Chú liền được tất cả Trưởng Nhân mà tự giáng phục.
Nếu tác pháp này hai mươi chín ngày đêm, ở trước Tháp Xá Lợi trì, dùng bùn Bạch Đàn Hương xoa tô mặt đất, làm cái Đàn rộng hai khuỷu tay, ở bên rải hoa đủ màu, tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, tay bưng lò hương, thiêu đốt Trầm Thủy Hương, ngồi hướng mặt về phương Đông, tưởng Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát như ngự trên đỉnh đầu, tụng Đại Thân Chú mãn một ngàn lẻ tám biến.
Đây là công năng ban đầu của Tối Thượng Việt chứng Tất Địa. Lại lấy hạt cải, mè đen hòa chung giã thành bột. Dùng ba ngón tay nhúm lấy chút ít, một lần Chú thì một lần ném vào trong lửa, cho đến bảy ngày, mỗi ngày một ngàn lẻ tám biến. Sau đó thì mọi việc làm thảy đều thành tựu.
Ấn thứ mười sáu: Quảng Đại Vô Úy Án.
Đứng thẳng, hai chân song song. Trước tiên ngửa tay phải rũ ở khuỷu tay trái. Tay trái cũng vậy.
Nếu thường ở trước tượng Xá Lợi, tụng Đại Thân Chú một ngàn lẻ tám biến sẽ được Vô Úy Thí Lợi Chúng Sinh Tam Muội Gia Môn.
Lại lấy Hồi Hương, hạt cải trắng, Xương bồ, Xả Đa Ba Lợi Tên thuốc nước ngồi. Dùng nhóm vật này nên ở trước Phật hoặc ở tại Đàn.
Dùng Đại Thân Chú, cứ một lần Chú thì một lần thiêu đốt, mãn một ngàn lẻ tám biến. Lại dùng hương, hoa cúng dường chú Kinh thì mọi ước nguyện thảy đều được quả đúng hạn.
Nếu các Chú khác không có ứng nghiệm. Dùng Chú này chú vào cũng đều thành tựu.
Nếu muốn cầu mộng thì tụng Chú này kèm kết Ấn ấn lên con mắt sẽ khiến cho mọi việc sở niệm tùy thấy trong mộng. Nếu người không có phước, mọi điều ước đến đều chẳng hài lòng. Mỗi ngày tụng một lẻ tám biến cho đến bảy ngày thì các điều mong cầu đều được tất cả.
Lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Xưa kia tại Ta Kiệt La Long, trong Đại Hải Pháp Hội con nhìn thấy các chúng Rồng thọ khổ não lớn. Do nhớ các hàng Rồng với các chúng sinh muốn nói pháp này khiến cho được xa lìa khổ không có các sự ốn hại.
Thời có một Long nữ dân cho con viên Ngọc Báu trị giá bằng Thế Giới Ta Bà để cầu pháp này. Con cũng vì cô ấy rộng nói Mẫu Đà La Ni pháp này để lìa xa các khổ.
Bấy giờ, Thủy Tinh Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Con cũng vì lợi ích hộ Trì Chú này nên nói Hộ Trì Thiên Nhãn Ấn Chú.
Ấn thứ mười bảy: Thủy Tinh Bồ Tát Ấn Chú.
Tỳ ma lê ma ha Tỳ ma lê Úc ha lê Ma ha Úc ha lê Hưu ma lê Ma ha hưu ma lê Tát ha lê chỉ lê thê Cấp bà ha.
VIMALE, MAHÀ VIMALE UD ÀRI, MAHÀ UD ÀRI, UD.
BALE, MAHÀ UD BALE SAHARI KIRTTI SVÀHÀ.
Thế Tôn! Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện ở ngay nơi du phương thọ trì Thiên Thủ Thiên Nhãn Bồ Tát Pháp. Con sẽ thường tùy vệ hộ người ấy chẳng để cho các quyến thuộc của ma gây não loạn.
Nếu có người bị nạn cấp bách, nước khác xâm hại, trộm cướp, nghịch loạn. Nên lấy chỉ ngũ sắc, dùng Chú này, cứ một lần Chú thì một lần gút, mãn hai mươi mốt gút rồi buộc ở cánh tay trái.
Lại dùng tay trái: Ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ nắm quyền, ngón cái đè lên trên, cong ngón út chỉ về nơi có giặc, tụng Chú một trăm lẻ tám biến thì thảy đều lui tan chẳng dám gây hại.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong núi Tuyết nói pháp thời từ xa Quán thấy Dạ Xoa, La Sát với nhân dân trong nước chỉ ăn máu thịt của chúng sinh, không có tâm lành.
Bồ Tát vì muốn lợi ích phương tiện giáo hóa đến nước đó, hiện Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Giáng Ma Thân, nói Thành Tựu Mẫu Đà La Ni Ấn. Lúc đó Quốc Vương La Sát đi đến chỗ ta Quán Thế Âm Bồ Tát cầu xin đỉnh lễ. Ta dùng Ấn Thành tựu ấn cho liền khiến được pháp Vô Thượng Đạo.
Ấn thứ mười tám: Thành Tựu Án.
Đứng thẳng kèm hai chân song song, chắp tay để ngang trái tim. Cài chéo hai ngón út, bên trái đè bên phải, tụng Đại Thần Chú hai mươi mốt biến thì mọi loại Niệm Pháp mau được thành tựu.
Nếu cứu chúng sinh bị khổ nạn trong sáu nẻo, nên dùng Luân Ấn. Đặt mười đầu ngón tay cùng dính nhau, mở cổ tay, mở lòng bàn tay khiến cho mười ngón tay đều cách nhau khoảng một thốn.
Chính Ta xoay vần tuần hồn trong sáu nẻo cứu độ mọi loại khổ nạn của chúng sinh đều kết Ấn này luân hồi sáu nẻo, chúng sinh gặp được đều xa lìa khổ đau.
Ấn thứ mười chín: Thành Đẳng Chính Giác Án.
Ngồi kiết già. Trước tiên duỗi năm ngón tay trái, ngửa lòng bàn tay đặt trên đầu gối trái. Tiếp, tay phải duỗi năm ngón úp bàn tay đè trên đầu gối phải.
Ấn này cùng với Diệt Tận Ấn, pháp pháp đồng nhau.
Hết thảy Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều đồng tu trì. Ấn này được thành Phật Bồ Đề. Ấn này hay trừ tất cả nghiệp chướng.
Nếu người ngồi Thiền tu các tam muội mà chẳng thấy pháp hiện tiền. Nên bảy ngày bảy đêm ở nơi A Lan Nhã Aranïya chốn thanh tịnh vắng lặng. Tụng Đà La Ni này và tác Ấn này.
Ngày đêm chí tâm chỉ tưởng Phật, sáu thời sám hối liền được các pháp hiện tiền và được đại phước tụ vô lượng vô biên chẳng thể tính đến.
Ấn thứ hai mươi: Hô Triệu Tam Thập Tam Thiên Án.
Trước tiên đem bốn ngón tay trái nắm quyền.
Tiếp, dùng tay phải nắm ngón cái của tay trái cũng như nắm quyền khiến cho ngón cái trái nằm trong hổ khẩu của tay phải và ló đầu ra. Đưa ngón trỏ phải qua lại.
Chú là:
Án Câu trí, câu trí Câu gia trí già lợi già lợi Già lợi lê Tô bà ha.
OMÏ KUTÏÌ KUTÏÌ KUNÕJALI JRÌ JRÌ JARJARA SVÀHÀ.
Ấn chú này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện lúc nằm muốn ngủ thời nên kết Ấn này, tụng Chú này, cứ một lần Chú thì Ấn một lần trên trái tim, mãn một trăm lẻ tám biến, ắt mọi ước nguyện trong tâm đều được thấy biết ở trong giấc mộng.
Nếu thường ngày ngày kết Ấn tụng Chú sẽ mau được trừ diệt tất cả tội chướng, chẳng mất tâm Bồ Đề. Người ấy đêm tối ngủ say nằm mơ dần dần tăng rộng đều dược tốt lành cho đến ký thành đạo và được Chư Thiên Thích Phạm thường đến thị vệ.
Ấn thứ hai mươi mốt: Hô Triệu Thiên Long Bát Bộ Quỷ Thần Án.
Đứng thẳng kèm hai chân song song. Trước tiên co ngón tay trái trong lòng bàn tay, bốn ngón còn lại nắm quyền để dính trên trái tim. Tiếp, tay phải cũng vậy, rồi đặt tay phải bên cạnh tai phải, đưa ngón trỏ qua lại.
Chú là:
Nam Mô Ni càn đà Nam Mô A lợi xà ba đà Cấp bà ha Nam Mô A lợi xà la, cấp bà ha yên hê di hê cấp bà ha.
NAMO NIKANÏTÏHA.
NAMO ALI JAVÀDI SVÀHÀ.
NAMO ALI JARA SVÀHÀ.
EHYEHI SVÀHÀ.
Ấn Chú này, nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì đọc tụng sẽ mau biết việc túc mệnh của bảy đời. Rắn độc, thuốc độc chẳng thể gây não hại. Đau chẳng thể hại, vua chẳng sinh giận dữ, muôn kiếp chẳng chịu khổ của địa ngục.
Nếu ngày ngày tụng Chú này thời hay khiến hai mươi tám bộ quỷ thần đi đến ngồi bên cạnh người tụng Chú lắng nghe tụng Chú.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện bị dính quỷ mị nên dùng sợi chỉ trắng, cứ chú một lần thì kết một gút, kết đủ bốn mươi chín gút đem đeo ở dưới cổ liền sẽ khỏi bệnh.
Nếu đất nước bị tai dịch hoành hành, người trong nước chết rất nhiều nên lấy một ngàn lẻ tám cọng hoa sen trong hồ ở vườn của Vua. Lại đem hoa sen, cứ một lần Chú thì trì một lần ném vào lửa thiêu đốt đến hết thì tai dịch liền trừ khỏi.
Ấn thứ hai mươi mươi: Giải Thốt Án.
Ngồi kiết già. Trước tiên tay trái đem ngón giữa, ngón cái vịn đầu nhau rồi ngửa lòng bàn tay hướng lên trên, duỗi bung ba ngón còn lại để ở trên đầu gối trái. Tiếp, tay phải cũng vậy, úp bàn tay để trên đầu gối phải.
Nên kết Ấn này, tụng Đại Thân Chú hai mươi mốt biến thì ước nguyện dần dần khiến cho tự được đầy đủ, khổ não của chư hữu đều được giải thốt.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện tạo đủ mười tội ác, năm tội nghịch. Như đem hết cả đất trong cõi Diêm Phù làm thành bụi, mỗi một hạt bụi nhỏ làm một đại kiếp.
Người ấy tạo đủ ngàn tội của nhóm bụi nhỏ đáng bị địa ngục trải qua nhiều kiếp chịu khổ vĩnh viễn không có kỳ hạn ra khỏi.
Người ấy hay ở ngày mười năm của tháng Bạch nguyệt, một ngày một đêm chẳng nói chẳng ăn, ở trước tượng Xá Lợi, kết Ấn, tụng Chú, mãn một ngàn lẻ tám biến thì kiếp khổ như trên thảy đều tiêu diệt. Nếu chẳng diệt thì không có điều ấy.
Thế Tôn! Ấn này, nếu thọ trì có đủ công hiệu lớn chẳng thể luận bàn.
Ấn thứ hai mươi ba: Tự Tại Thần Túc Án.
Đứng thẳng, đem tay trái nắm ngón chân cái phải như nắm quyền. Tiếp, tay phải nắm trên lưng bàn tay trái. Tụng Đại chú, chú vào Ấn bảy biến.
Dùng sức của Ấn Chú sẽ được thần thông, trụ địa bất thối cho đến bồ đề. Lúc tụng Chú đừng để cho phát ra tiếng.
Ấn thứ hai mươi bốn: Thần Biến Tự Tại Án.
Trước tiên tay trái đem ngón cái vịn trên móng ngón út. Tiếp, tay phải cũng vậy. Ba ngón còn lại đều bung thẳng khiến cho cổ tay dính nhau rồi đặt trên đỉnh đầu. Tụng Đại Thân Chú một trăm lẻ biến ắt đồng với Ẩn Hành Phi Tiên, du hành tự tại.
Ấn thứ hai mươi năm: Thỉnh Thiên Nhãn Quán Âm Tâm Vương Chú Án.
Ấn này là đệ nhất Căn bản Khải thỉnh Ấn. Chắp hai tay lại giữa trống rỗng, hợp cổ tay, đưa hai ngón trỏ qua lại.
Án A lỗ lực, đế sái lộ ca Tỳ xả gia, Tát bà thước đô lô, bát la ma đà na, ca la gia, Hàm pháp, sa ha.
OMÏ AROLIK TRAILOKA VIJAYA SARVA ‘SATRÙ.
PRAMADANA KARÀYA HÙMÏ PHATÏ SVÀHÀ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Sáu - Phẩm Mười Hai - Phẩm Hiện Hóa
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh ðoạn Giảm - Phần Ba - đoạn Giảm
Phật Thuyết Kinh đại Lâu Thán - Phẩm Tám - Phẩm Tứ Thiên Vương
Phật Thuyết Kinh Năm Giới Tướng Của ưu Bà Tắc - Phần Hai - Giới Trộm
Phật Thuyết Kinh A Tra Bà Câu Quỷ Thần đại Tướng Thượng Phật đà La Ni Thần Chú