Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Hai - Phẩm Sinh Tử - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM HAI

PHẨM SINH TỬ  

TẬP BA  

Lại nữa, Tỳ Kheo kia quán xét về thọ ấy: Thọ này của ta trụ được bao lâu?

Người kia quan sát thọ của ta sinh diệt tương tục, giống như ánh sáng của điện chớp.

Tỳ Kheo quan sát: Nghĩa này như thế nào?

Nhân duyên của nhãn thọ có sinh ra tỷ thọ không?

Người kia quan sát đúng đắn do duyên của ý căn sinh thọ, thọ ấy hủy hoại thọ của tất cả căn khác. Giống như bò, trâu, ngựa, lạc đà đều có chung một tướng hoại, nhưng nhân duyên đưa đến cái hoại thì khác nhau.

Từ vô thỉ đến nay, năm căn khởi lên đều duyên dựa do hỷ lạc, nhưng cảnh giới của hỷ lạc lại khác nhau. Nếu hủy hoại cảnh giới của tướng ý lạc thì cảnh giới của căn hoại theo. Ví như trâu, ngựa, lạc đà, heo…

Tỳ Kheo kia quán về thọ như vậy thì được trí tuệ vi tế.

Tỳ Kheo kia đối với trí ấy ưa thích tu tập và thực hành nhiều. Quán xét về lạc thọ rồi, tùy thuận quán thọ một cách rốt ráo.

Tỳ Kheo kia suy nghĩ: Thọ này của ta do nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý mà khởi lên.

Nó từ đâu sinh và diệt thì đi về đâu?

Tỳ Kheo kia tùy thuận quan sát thì biết thọ đã diệt sạch, do tư duy về đạo lý. Quán như vậy rồi, Tỳ Kheo kia biết thọ không từ đâu sinh và diệt thì cũng không đi về đâu. Nhãn thọ này của ta xưa không, nay có, có rồi lại hoàn không. Nhãn này của ta không từ đâu đến, giống như nước biển.

Diệt rồi thì không đi về đâu như nước các sông đều chảy về biển cả. Thọ thuộc về nhãn của ta xưa không, nay có, có rồi lại hoàn không, nó do nhân duyên sinh. Thọ thuộc về nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều như vậy.

Giống như người thợ gốm hoặc đệ tử của ông ta nhờ vào các duyên: Bánh quay, khối đất, sức lực và kỹ thuật, nước, khúc cây của con người mà làm ra cái bình. Như vậy cái bình không từ đâu đến và diệt thì cũng không đi về đâu, nhưng cái bình ấy nhờ vào các nhân duyên mà có. Như vậy, nhãn nhờ duyên với sắc, ánh sáng, hư không, sự nhớ nghĩ mà sinh ra nhãn thọ là khổ, vui hay không khổ không vui.

Giống như cái bình kia nếu nhân duyên tốt thì được cái bình tốt, còn nhân duyên xấu thì có cái bình xấu. Như vậy, duyên vào duyên thiện thì sinh nhãn thọ thiện. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng đều như vậy.

Nếu hợp những thọ thiện lại, thuận theo thứ lớp mà tu hành thì đạt đến Niết Bàn. Nếu nhân duyên bất thiện thì nhãn thọ bất thiện sinh dục, sân, si.

Luôn luôn sinh tử bị đọa vào cảnh giới của đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Tất cả việc làm thiện, quả báo thiện của Tỳ Kheo kia, nếu tùy thuận chuyên tâm quan sát về thọ ấy thì không có chỗ nương dựa, không có người tạo tác, không có nhân khởi, không phải là không có nhân khởi, không có nhóm họp, phi thường, phi sắc, luôn luôn thay đổi trong từng niệm, chẳng phải là pháp điên đảo.

Tỳ Kheo thấy thọ ấm như vậy thì diệt hữu ái, hỷ lạc sinh. Ái dục xấu ác, tất cả sinh tử đều thấy là vô thường, người kia lại ưa thích tu tập và tu tập nhiều về đạo xuất thế gian đoạn trừ tất cả kết, xa lìa hết thảy sử.

Thế nào là kết?

Là kết của ái, kết của chướng ngại, kết của vô minh, kết của kiến giải, kết của sinh, kết của kiêu mạn, phải đoạn trừ hết các kết này.

Thế nào là sử?

Là sử của dục nhiễm, sử của hữu nhiễm, sử của kiến giải, sử của chướng ngại, sử của mạn, sử của vô minh. Kết của hành trang, kết của chướng ngại, kết của ganh ghét, kết của đố kỵ, sử của nghi hoặc do các nhân duyên này mà luân hồi trong ba cõi, đi trong ba cõi, quay tròn nơi ba đường ác, đi dài qua ba thời gian. Đối với ba phẩm huân tập theo ba thọ, là nhân duyên luân chuyển sinh tử trong ba đời.

Lại nữa, người tu hành trong tâm tư duy, tùy thuận với chánh pháp, quan sát sự hoạt động của các pháp.

Tỳ Kheo kia làm sao nhận biết về nhân duyên của nhãn?

Người kia quán nhãn do nhân gì duyên gì mà sinh?

Người kia thấy, nghe, biết, hoặc thấy bằng thiên nhãn: Nghiệp là nhân của nhãn, nhãn nhân nơi nghiệp mà sinh. Chúng xoay tròn như thế. Giống như hạt Ni Cư Đà trong thế gian, từ hạt mà mọc ra cây Ni Cư Đà. Cây ấy lại sinh ra hạt. Chúng bị trói buộc trong nhân duyên như vậy.

Biết do nghiệp sinh, nghiệp lại chuyển sinh. Có sinh thì có già, chết, lo buồn, than khóc, khổ não. Do nghiệp nhân bị trói chặt trong lưới ái, khiến cho hết thảy kẻ phàm phu ngu si luân chuyển trong biển sinh tử mà tưởng là đến chỗ tất cả ái. Do không tạo nghiệp nên không có ái, do không có ái nên không có thọ.

Nhân duyên đó giống như ngọn đèn: Nhờ có tim đèn, bầu đèn, dầu, lửa mà có ánh sáng đèn phát ra liên tục. Tỳ Kheo kia quán xét nguyên nhân của thọ, quán kỹ tất cả thọ sinh ra do nghiệp nhân, nghiệp pháp và nghiệp lực. Bầu đèn dụ cho thân, dầu dụ cho căn, tim đèn dụ cho thọ, dục, sân si dụ cho lửa luôn luôn phát sinh, lửa dụ cho từng niệm trí phát sinh, ánh sáng dụ cho trí tuệ.

Người tu hành kia thấy biết tất cả nơi ba cõi đều có thọ này. Giống như người thợ vàng hoặc đệ tử của ông ta được vàng ròng thì có thể tạo thành những vật trang sức tốt đẹp. Người thợ thiện xảo kia dụ cho người tu hành, vàng ròng dụ cho duyên dựa theo điều thiện. Nếu duyên dựa theo thiện thì được nghiệp thiện đạt đến đạo Niếtbàn, còn duyên dựa theo điều bất thiện thì đưa đến nghiệp bất thiện.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Biết rõ nhân và duyên

Định rõ nghĩa vi tế

Luôn hỷ lạc giải thoát

Không bị ái sai khiến.

Chúng sinh theo dòng nghiệp

Rồi theo nghiệp mà sinh

Quả nghiệp trói buộc rồi

Đi trong cõi hiểm ác.

Ai lìa nghiệp bất thiện

Thường hỷ lạc nghiệp thiện

Người tu hành như thế

Như trăng sáng trong lành.

Người kia đốt nghiệp ác

Như lửa đốt cỏ khô

Chói sáng trong ba cõi

Giải thoát các pháp ác.

Nếu ai cầu giải thoát

Tâm không thích sinh tử

Không bị sinh tử trói

Như chim bay trên không.

Biết rõ nguyên nhân thọ

Biết rõ quả báo thọ

Thì sẽ được giải thoát

Biết rõ về ba cõi.

Khổ vui không lay động

Tốt xấu không để tâm

Thấy thế gian như lửa

Người tu hành từ bi.

Ý không bị lỗi lầm

Thích thực hành chánh pháp

Tâm thích pháp Tỳ Kheo

Thế gọi là Tỳ Kheo.

Không thích gặp thân ái

Thích gặp bậc hiền thiện

Xuất gia lìa nhà cấu

Như vậy là Tỳ Kheo.

Giữ các căn tịch tĩnh

Không tham đắm cảnh giới

Đi nhìn đất một tầm

Như vậy là Tỳ Kheo.

Không mắng nhiếc người khác

Nhất định không mua bán

Không thích đến ngã tư

Như vậy là Tỳ Kheo.

Không thích xem ca múa

Không ưa chốn người giàu

Thích ở nơi gò mả

Như vậy là Tỳ Kheo.

Ngày chỉ ăn một bữa

Không cất để ngày mai

Ăn vừa đủ hai phần

Như vậy là Tỳ Kheo.

Xả bỏ áo quần đẹp

Ưa thích y phấn tảo

Ăn khế hợp với tu

Như vậy là Tỳ Kheo.

Không tạo nghiệp thế tục

Không mong quả thế gian

Không khổ cầu vật dụng

Như vậy là Tỳ Kheo.

Giải thoát khỏi dục, sân

Lìa bỏ tâm bùn si

Pháp ác không làm dơ

Như vậy là Tỳ Kheo.

Vượt qua tất cả kiết

Xả ly tất cả sử

Giải thoát mọi trói buộc

Như vậy là Tỳ Kheo.

Đi đường tám chánh đạo

Hướng đến thành Niết Bàn

Lìa ý ác phiền não

Như vậy là Tỳ Kheo.

Ý vững, căn vắng lặng

Lìa bỏ vũng bùn dục

Thường nhất tâm chánh niệm

Như vậy là Tỳ Kheo.

Đã chứng được trí địa

Tâm tịch tĩnh thấy rõ

Biết thiện, ác các địa

Như vậy là Tỳ Kheo.

Pháp lậu, pháp vô lậu

Đều do duyên mà sinh

Biết tất cả mọi pháp

Như vậy là Tỳ Kheo.

Chánh trực tu phạm hạnh

Tịch tĩnh lìa biếng trễ

Dạy sớm, tịnh, cung kính

Như vậy là Tỳ Kheo.

Ưa thích tu định, huệ

Lại ưa thích Tứ Thiền

Ưa thích chốn vắng lặng

Như vậy là Tỳ Kheo.

Như chim bay trên không

Bóng nó luôn theo bên

Như ý thuận chánh pháp

Như vậy là Tỳ Kheo.

Hay diệt các phiền não

Quán thiện ác bình đẳng

Khéo biết thở ra vào

Như vậy là Tỳ Kheo.

Nếu biết theo thứ tự

Thấy rõ pháp mình tu

Biết rõ đạo, phi đạo

Như vậy là Tỳ Kheo.

Được lạc, tâm không hỷ

Gặp khổ, lòng không ưu

Hỷ, ưu, tâm bình đẳng

Như vậy là Tỳ Kheo.

Nếu biết rõ sinh tử

Thiên, Tu La kính lạy

Biết chúng sinh thiện ác

Như vậy là Tỳ Kheo.

Y bát thường biết đủ

Không chứa của cải quý

Thiểu dục và phạm hạnh

Như vậy là Tỳ Kheo.

Nhất thực lìa cấu uế

Không tham đắm mùi vị

Thường xả bỏ lợi dưỡng

Như vậy là Tỳ Kheo.

Hành tâm xả, tâm bi

Lìa bỏ ác ganh tỵ

Thiêu đốt mọi lỗi lầm

Như vậy là Tỳ Kheo.

Tỳ Kheo kia trong tâm tư duy, tùy thuận với chánh pháp, quan sát thọ như vậy.

Quán thọ được trí vi tế rồi, vị ấy lại quan sát sâu xa: Biết thọ do xúc sinh, do duyên mà hoạt động. Như vậy quán chỗ duyên dựa thứ hai của nhãn tác hợp lại thì diệt thọ do xúc sinh. Duyên dựa nơi thọ do nhãn xúc sinh đã diệt thì duyên dựa với âm thanh, ta sinh ái thọ.

Nếu không ái thọ thì tâm không cùng diệt. Tỳ Kheo kia dùng dây chẳng sầu cột tâm vào cây cột duyên dựa. Thọ kia đã diệt thì chỗ duyên dựa của âm thanh và thọ thuộc về nhĩ đều diệt.

Tỷ duyên với hương mà sinh tỷ thọ. Tỳ Kheo kia quán thọ do tỷ xúc sinh.

Vị ấy tư duy: Tỷ của ta cùng với hương mà sinh thọ thuộc tỷ là thiện hay bất thiện, ký hoặc vô ký?

Tỷ này của ta thọ thì tâm không diệt. Tỳ Kheo quán xét sự hoại diệt của tâm với chỗ duyên dựa luôn luôn hoạt động. Như vậy thì phải điều phục tâm, lấy pháp thiện huân tập tâm để trở thành pháp thiện vô lậu. Bấy giờ được bất động.

Thiệt duyên hợp với vị, duyên hợp này là thiện hay bất thiện, ký hoặc vô ký. Tỳ Kheo biết rõ sự duyên dựa này rồi, tiếp tục quan sát về thọ khổ, vui, không khổ, không vui.

Quán như vậy và tư duy: Tâm này của ta hoại hay không hoại?

Lại quan sát thọ do duyên hợp với vị mà sinh, nó có thể phá hoại tâm. Quán xét như vậy rồi, dùng sợi dây chẳng sầu cột tâm kia vào cây cột duyên hợp, phải giữ gìn như vậy do sự tu hành. Nếu tâm như thế thì các sự ưa thích của vị do thiệt thọ không bị cướp mất.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần