Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Hai - Phẩm Sinh Tử - Tập Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM HAI

PHẨM SINH TỬ  

TẬP NĂM  

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Vô số các khổ não

Miệng đói khát, khô nóng

Lửa thiêu đốt khắp thân

Như lửa đốt cây khô.

Khổ ấy nhiều vô lượng

Căn tĩnh trong một niệm

Tạm nương Phật, Pháp, Tăng

Người đó sinh tử ngắn.

Như vậy Tỳ Kheo duyên vào tướng mà tưởng.

Thường lo sợ đánh đập

Bị mưa và lạnh, nóng

Và ăn nuốt lẫn nhau

Những khổ não như thế.

Không thể nào tính nổi

Tâm tĩnh trong một niệm

Tạm nương Phật, Pháp, Tăng

Súc Sinh sinh tử ngắn.

Tỳ Kheo duyên vào tướng mà tưởng.

Trong Địa Ngục Hắc thằng

Hoạt, Hợp và Khiếu hoán

Đại khiếu hoán, A tỳ…

Những khổ bức cùng cực.

Không thể nào lường nổi

Nếu ở trong một niệm

Tâm tịch tĩnh giữ giới

Địa Ngục sinh tử ngắn.

Như vậy là Tỳ Kheo duyên vào tướng mà tưởng.

Tỳ Kheo kia tư duy về tướng sinh tử ngắn như vậy: Thế nào là bốn cạnh?

Người kia quan sát đúng đắn về loài người ở Châu Uất Đan Việt, đối với tất cả các vật đều không có tâm ngã sở, quyết định đi lên. Người ấy quán xét về sinh tử nơi bốn cạnh như vậy, Tỳ Kheo duyên vào tướng mà tưởng.

Thế nào là tròn?

Trong ba đường dữ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh là sinh tử tròn. Vì chúng sinh vô trí nên luân chuyển, tâm không chủ động được. Đó là sinh tử tròn, Tỳ Kheo như vậy là duyên vào tướng ấy mà tưởng.

Thế nào là ba góc?

Người hành các nghiệp lẫn lộn giữa thiện, bất thiện, vô ký nên sinh lẫn lộn vào các chỗ địa ngục, Trời, Người. Nghiệp bất thiện sinh trong địa ngục. Nghiệp thiện sinh vào Cõi Trời, nghiệp lẫn lộn sinh vào cõi người. Nếu tạo ba nghiệp thì sinh vào ba chỗ ấy. Như vậy gọi là sinh tử ba góc. Tỳ Kheo duyên vào tướng đó mà tưởng.

Thế nào là một nắm?

Nghĩa là Tứ đại Thiên Vương, Trời Tam Thập Tam, Trời Dạ Ma, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại tạo nghiệp tương tự. Nơi Cõi Trời mà thoái đọa thì sinh trong Cõi Trời, trong cõi người chết đi thì sinh trong cõi người, nơi không có tai nạn, đó là sinh tử một nắm. Tỳ Kheo duyên vào tướng ấy mà tưởng.

Thế nào là xanh?

Nghĩa là thuộc về nghiệp bất thiện, người ở cõi địa ngục thì vào trong địa ngục tối tăm. Đó là sinh tử xanh, Tỳ Kheo duyên vào tướng đó mà tưởng.

Thế nào là vàng?

Nghĩa là thuộc nghiệp màu vàng, sinh trong loài ngạ quỷ hung ác với nhau, hủy hoại lẫn nhau. Ngạ quỷ như thế là sinh tử vàng. Tỳ Kheo duyên vào tướng ấy mà tưởng.

Thế nào là đỏ?

Nghĩa là thuộc về nghiệp đỏ, sinh trong loài súc sinh ăn nuốt lẫn nhau, ưa thích máu me. Đó là sinh tử đỏ, Tỳ Kheo duyên vào tướng đó mà tưởng.

Thế nào là trắng?

Nghĩa là thuộc về nghiệp màu trắng sinh trong Cõi Trời. Nghiệp trắng của người kia do cái quý giá của nẻo thiện mà sinh vào hàng Trời, Người.

Khi sắp thoái chuyển nơi Cõi Trời có các Trời khác nói: Đường lành của ông đi vào Thế Giới loài người.

Trong cõi người, lúc sắp chết, bà con, bạn bè, vợ con khóc lóc, nước mắt giàn giụa đầy mặt nói như vậy: Thật đáng thương tiếc! Nay bỏ chúng tôi đi mong sinh vào chỗ tốt đẹp trong cõi người. Trời, Người như thế là sinh tử trắng. Tỳ Kheo duyên vào tướng đó mà tưởng như vậy.

Tỳ Kheo kia tư duy như vậy: Được làm thân người, nếu không tạo điều lành, tu tập bố thí, trì giới, trí tuệ thì người ấy tự lừa gạt mình, lưu chuyển trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đi nơi đồng trống vắng, kẻ phàm phu ngu si tụ tập đông đủ.

Như vậy về nghiệp đạo, Tỳ Kheo kia quán xét kỹ nơi thọ, quan sát về tưởng ấm dựa theo duyên mà hoạt động, thấy rõ, hiểu rõ nhãn thức do nhãn duyên với sắc, do ba sự hòa hợp sinh ra xúc.

Cần phải quán tưởng nhiều, quán xét từng thứ sắc đẹp hay xấu, gần hay xa, dài hay ngắn, vuông hoặc tròn, trắng, ba góc, đó là hình tướng của sắc. Người kia lại quan sát riêng biệt nơi tưởng của các tướng. Quán nhân duyên của tưởng, quán ấm giới nhập, quán tưởng của tướng nhân duyên, tuần tự quán xét từng cái riêng biệt.

Nếu nghiệp báo ác thì phải hiểu rõ đúng đắn từng phần duyên tương ưng, biết được do tương ưng sau đó mới lìa bỏ. Nếu có lợi ích hoặc không lợi ích mỗi loại đều có tướng riêng biệt. Tưởng biết về quá khứ ở trong nghiệp này, ta được quả báo thiện lại bị quả báo ác như trước đã nói.

Biết tưởng như vậy: Nếu có tưởng thì nó giống như nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ duyên với tưởng kia mà sinh. Như ánh sáng của đèn, nhờ đèn duyên với đèn, phối hợp với đèn mà có ánh sáng. Như vậy, nhân nơi tưởng duyên với tưởng, do sức mạnh của tưởng mà có nghĩ nhớ. Tỳ Kheo kia đạt được địa thứ năm.

Tỳ Kheo kia nhận biết xúc của tưởng rồi, đối với các thú vui của Cõi Trời không sinh tâm tham đắm, đối với khổ trong địa ngục không lo sợ. Vị ấy có nhận thức bình đẳng. Tưởng thuần thục giống như vàng ròng. Tưởng của Tỳ Kheo kia đã phá tưởng như vậy, lại quán xét tưởng của pháp khác và giải thoát tưởng kia. Lại quán tưởng của người khác là hư vọng không thật.

Ta nay quán xét: Do nhân gì?

Do duyên gì?

Do nhân duyên gì mà sinh ra tưởng?

Người kia quán xét tưởng do các nhân duyên hòa hợp lại mà sinh ra. Nếu nhân diệt thì tưởng kia cũng diệt. Giống như viên nguyệt châu. Viên nguyệt châu do duyên của nguyệt, duyên của châu mà làm cho nước trong. Tưởng cũng vậy, do nhân duyên mà sinh.

Như vậy, tưởng chẳng phải là không có nhân duyên, nên không có người tạo tác, không có người thọ, nó không tự nhiên sinh. Tỳ Kheo kia quán kỹ về tưởng ấm. Vị ấy đã quán kỹ về tưởng ấm rồi nên biết rõ sự sinh diệt.

Lại quan sát vi tế giống như nước của dòng sông luôn chảy. Tưởng cũng như vậy, tưởng về thiện phát sinh thì do sức mạnh của nhân duyên khác chuyển làm bất thiện.

Tưởng bất thiện sinh thì sức mạnh của nhân duyên còn lại chuyển làm tưởng thiện. Tâm kia như khỉ vượn. Đầu tiên phá vô ký thành ký. Người kia quán tưởng vui thì không sinh tham đắm vui. Trong cái vui vô lậu sinh tưởng vui, trong cái vui sinh tưởng khổ. Đó là biết vui.

Như vậy làm sao thấy được ấm giới nhập thiện, hoặc sinh hoặc diệt?

Không hỷ lạc thọ, không lạc thì tưởng diệt, không giữ lấy thì tưởng diệt, sau đó hành sinh, chẳng phải trụ chẳng phải diệt, tâm không mong cầu vì nhận thức rõ về sinh trụ diệt.

Tỳ Kheo biết rõ ấm này cho nên không trụ vào cảnh giới của ma, không bị dục tham, sân, si trói buộc, không thấy có các thường, lạc, ngã, tịnh, vô minh không thể chi phối trong sinh tử, không bị thất niệm do sự trói buộc của lưới ái nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc. Người kia sinh nhớ nghĩ nên có thể diệt hết các lậu, đạt đến Niết Bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Bất cứ Tỳ Kheo nào

Thân cận người biếng nhác

Không siêng năng tinh tấn

Thì chẳng phải Tỳ Kheo.

Ai không thích giường chiếu

Phật nói là Tỳ Kheo

Ai ưa thích biếng trễ

Không thích làm điều thiện.

Một loại phiền não gốc

Đó chính là biếng trễ

Ai có một biếng nhác

Người đó không đắc pháp.

Chẳng phải mặc pháp phục

Mà được gọi Tỳ Kheo

Ai không thích tụng kinh

Không thiền, lậu chưa diệt.

Chỉ có tướng Tỳ Kheo

Chẳng phải là Tỳ Kheo

Chỉ thích dạo trong rừng

Không ưa cảnh giới đạo.

Ý tham vui rượu sắc

Chẳng phải là Tỳ Kheo

Ai cắt dây ma trói

Đoạn trừ các nghiệp ác.

Phật nói là Tỳ Kheo

Không trộm thức ăn tăng

Thà ăn loài rắn độc

Và uống nước đồng sôi.

Trọn không phá giới cấm

Ăn uống vật của tăng

Như vậy không nên làm

Ăn vật không nên ăn.

Ai ăn các phiền não

Thì đọa vào Địa Ngục

Người xả bỏ phiền não

Như ra khỏi hang rắn.

Tỳ Kheo kia nên ăn

Không thích nhìn người nữ

Đem thân làm chất liệu

Để thỏa mãn tâm ác.

Làm nhơ nhớp Tăng Bảo

Sao gọi là Tỳ Kheo!

Ai tham ái, lợi dưỡng

Hỷ lạc nơi cảnh giới

Thấy người nữ đắm nhiễm

Không phải đạo người đời.

Ai thiêu đốt phiền não

Như lửa đốt núi rừng

Là hàng phạm hạnh thiện

Không tham đắm ăn uống.

Ưa thích đến xóm làng

Luôn luôn thích tắm rửa

Ngu si dối mình, người

Tất bị mất đạo pháp.

Tâm tĩnh, chốn thanh vắng

Thường luôn giữ tu thiền

Thế gọi hàng phạm hạnh

Vào cảnh giới đường thiện.

A lan nhã chốn tĩnh

Cùng người đó ở chung

Người lìa dục đã trọn

Không hỷ lạc các dục.

Ai ưa thích nói nhiều

Yêu thích các cảnh ác

Không hướng thành Niết Bàn

Chốn bất sinh, bất diệt.

Gần Vua ăn món ngon

Uống rượu rồi khởi sân

Chỉ có tên Tỳ Kheo

Vọng ngữ dối tín thí.

Dối trá nói đủ thứ

Thường đến cửa triều đình

Làm người khác đau khổ

Hủy hoại chỗ thanh vắng.

Nếu ai bỏ vợ con

Ở rừng sâu tịch tĩnh

Mà vẫn còn luyến nhớ

Như nhổ ra ăn lại.

Tỳ Kheo kia làm tịch tĩnh các thứ lỗi trên, quan sát về ấm đúng như thật để thấy rõ, siêng năng tu giải thoát, luôn học hỏi các bậc tôn trưởng về đạo hay phi đạo. Vì thấy biết kỹ về tám Thánh đạo mà cầu đến thành giải thoát, siêng năng hành đạo, chánh kiến bình đẳng, tâm không bị cấu nhiễm, nên tâm người ấy tịch tĩnh. Đối với việc hành đạo người ấy ưa thích tu tập và tu nhiều.

Tỳ Kheo kia được pháp thiện nơi nghiệp đạo vô lậu như vậy, hòa hợp mà tu hành làm tổn giảm quân ma, tăng trưởng bạn chánh pháp. Dạ Xoa sống trên đất biết sự việc này nói với Dạ Xoa nơi hư không. Dạ Xoa nơi hư không tuần tự tâu với Tứ Đại Vương, Tứ Đại Vương lại tâu với Tứ Thiên Vương cho đến Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Đức Thế Tôn Di Lặc như đã nói ở trên.

Nơi Cõi Trời Đâu Suất Đà có một vị Bồ Tát hết sức hoan hỷ hướng đến Trời Hóa Ứng nói như vậy: Trong cõi Diêm Phù Đề có Thiện Nam… đã cạo bỏ râu tóc, đắc pháp y, như trước đã nêu rõ.

Trời Hóa Ứng trở nên vui mừng như trước đã nói.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HOT

Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Hai - Thiên Nhân Duyên - Chương Bốn - Tương ưng Vô Thỉ - Phẩm Thứ Nhất - Phần Năm - Núi

Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Một - Phẩm Parosata - Chuyện Lạ Kỳ Tiền Thân Bàhiya

Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Năm - Thiên đại Phẩm - Chương Hai - Tương ưng Giác Chi - Phẩm Triền Cái - Phần Bảy - Tăng Trưởng Hay Không Giảm Thiểu

Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Sáu - Pháp Hội Bồ Tát Kiến Thiệt - Phẩm Thứ Hai Mươi Ba - Phẩm Tịnh Cư Thiên Tử Tán Kệ - Phần Một

Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Ba - Thiên Uẩn - Chương Mười - Tương ưng Càn Thát Bà - Phần Hai - Thiện Hành

Phật Thuyết Kinh Tương ưng Bộ - Tập Bốn - Thiên Sáu Sứ - Chương Một - Tương ưng Sáu Xứ - Năm Mươi Kinh Thứ Bốn - Phẩm Rắn độc - Phần Chín - ðàn Tỳ Bà

Phật Thuyết Kinh Trung ấm - Phẩm Một - Phẩm Như Lai Năm Hoằng Thệ Nguyện Vào Trung ấm Giáo Hóa

Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Ghotamukha

Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai - Phẩm Năm - Phẩm Ruhaka - Chuyện Thiên Nữ Sirikàlakanni Tiền Thân Sirikàlakanni

Phật Thuyết Kinh Nhất Thiết Như Lai Kim Cương Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật đại Giáo Vương - Phần Một