Phật Thuyết Kinh Quang Tán - Phẩm Bảy - Phẩm Liễu Không
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH QUANG TÁN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM BẢY
PHẨM LIỄU KHÔNG
Khi ấy Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Đại Bồ Tát muốn đầy đủ thí Ba la mật thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn đầy đủ giới Ba la mật, nhẫn Ba la mật, tinh tấn Ba la mật, thiền Ba la mật thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ sắc thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ thọ, tưởng, hành, thức thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ thanh, hương, vị, xúc, pháp thì nên học bát nhã Ba la mật.
Muốn dứt trừ nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt xúc thức, ý pháp thức thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ tập khí nhân duyên của sắc xúc, thọ xúc, tưởng xúc, hành xúc, thức xúc thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ tham, dâm, sân hận, ngu si thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ tham, thân kiến thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ hồ nghi, phạm giới thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ dục, các sự đắm trước sắc dục, vô sắc dục thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ nhân duyên trói buộc, đắm trước đối với tưởng cảm thọ thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ bốn quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ bốn ưu, bốn trước, bốn hung thọ, bốn điên đảo thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn dứt trừ năm cái, sáu nhập, bảy thức, tám tà, chín não, mười ác, nghiệp tội phước thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn dứt trừ mười điều thiện, bốn thiền, bốn đế, năm thần thông, muốn dứt trừ bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh Đạo thì nên học bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát muốn dứt trừ mười lực, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, bốn đẳng tâm, bốn định vô sắc, tất cả các ý chỉ, mười tám pháp Bất cộng của Phật thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn định rõ tam muội giác ý thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn phân biệt tam muội Hư Không tuệ, tam muội Thức tuệ, tam muội Bất dung tuệ, tam muội Hữu tưởng tuệ, tam muội Vô tưởng tuệ, định chánh thọ diệt thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn thành tựu tam muội Sư tử ngu lạc, tam muội Sư tử chấn hống, muốn đạt được môn tổng trì thì nên học bát nhã Ba la mật. Muốn đắc tam muội Thủ Lăng Nghiêm, tam muội Bảo hải, tam muội Chánh thọ Tuệ ấn thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Nguyệt diệu, tam muội Nguyệt tràng, nhập tất cả các pháp tam muội Chánh thọ thì nên học bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Đổ minh ấn, tam muội Sinh chư pháp, tam muội Chánh thọ xuất ư khuyến từ tràng phan ác thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Kim cang dụ, tam muội Nhập nhất thiết chư pháp môn, tam muội Định ý vương, tam muội Chánh thọ Đế Vương ấn thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Thế lực thanh tịnh, tam muội Siêu chư bình đẳng, tam muội Thuận sinh chư pháp sở qui nhập, tam muội Chánh thọ nhập nhất thiết chư pháp ngôn thanh thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Quán thập phương, muốn đắc tam muội nhất thiết chư pháp tổng trì môn ấn, tam muội nhất thiết chư pháp bình đẳng ấn tạo ấn, tam muội Chánh thọ trụ ư không xứ thì nên học bát nhã Ba la mật.
Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Nghiêm tịnh, tam muội Đạo Tràng, tam muội Chánh thọ siêu việt thần thông thì nên học bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát muốn đắc tam muội Phản xuất, tam muội Đẳng tràng hộ anh, tam muội Chánh thọ dục trí thị và các môn tam muội khác thì nên học bát nhã Ba la mật.
Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ Tát muốn khiến cho tất cả loài chúng sinh được đầy đủ nguyện thì nên học bát nhã Ba la mật.
Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Lại nữa, Đại Bồ Tát muốn được đầy đủ gốc công đức, do đầy đủ gốc lành ấy mà không đọa vào cõi ác, không sinh về chốn ti tiện, không rơi vào địa Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng tranh tụng với thượng pháp Bồ Tát thì nên học bát nhã Ba la mật.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Thế nào là Đại Bồ Tát chẳng tranh tụng thượng pháp?
Hiền Giả Tu Bồ Đề trả lời Hiền Giả Xá Lợi Phất: Đại Bồ Tát không khởi phương tiện thiện xảo, không khởi không từ đâu sinh mà dùng phương tiện thiện xảo hành sáu pháp Ba la mật, hiểu rõ không, vô tướng, vô nguyện, không từ đâu sinh, mang đến môn tam muội, không rơi vào Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng không độ người diệt định Bồ Tát. Đó gọi là Bồ Tát sinh chẳng thuần thục.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Sao gọi là Bồ Tát sinh chẳng thuần thục?
Hiền Giả Tu Bồ Đề trả lời Hiền Giả Xá Lợi Phất: Sở dĩ nói không thuần thục là vì tham vướng nơi pháp. Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất, Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, đứng trên cái không của sắc mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy, đứng trên không mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Đó gọi là Đại Bồ Tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra chẳng thuần thục.
Lại nữa, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát đứng trên sắc vô tướng mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa, đứng trên sắc vô nguyện mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa.
Đó là Đại Bồ Tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như vậy, đứng trên không sở hữu mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa. Nhãn sắc thức, nhĩ thanh thức, tỷ hương thức, thiệt vị thức, thân tế hoạt xúc thức, ý pháp thức, cũng đứng trên mặt này mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa.
Đó là Đại Bồ Tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận. Sắc vô thường, thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Sắc khổ, thọ, tưởng, hành, thức khổ. Sắc vô ngã, thọ, tưởng, hành, thức vô ngã cũng đều đứng trên mặt này mà biết tưởng thức có chỗ nương dựa.
Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đó là Đại Bồ Tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra không thuần thục, nên đoạn sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấy. Sắc này chẳng phải sắc thì trừ sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, đó là diệt tận. Còn thiết lập sự chứng đắc, đó chẳng phải diệt tận mà là tạo lập sự chứng đắc. Nên tu theo con đường trước ấy, nên tập hành theo việc ấy. Còn điều này sau là nhiễm trần tranh chấp, đừng tập hành theo.
Một bên là việc nên làm của Bồ Tát, một bên chẳng phải là việc Bồ Tát nên làm, một bên là đạo Bồ Tát, một bên là Bồ Tát học giới không nên học: Nào là thí Ba la mật của Bồ Tát, nào là giới Ba la mật của Bồ Tát, nào là nhẫn Ba la mật của Bồ Tát.
Nào là tinh tấn Ba la mật của Bồ Tát, nào là thiền Ba la mật của Bồ Tát, nào là bát nhã Ba la mật của Bồ Tát, nào là Bồ Tát có phương tiện thiện xảo, nào là Bồ Tát không có phương tiện quyền xảo, nào là Bồ Tát nhập tịch nhiên, nào là Bồ Tát sinh khởi không thuần thục.
Hiền Giả Tu Bồ Đề nói với Hiền Giả Xá Lợi Phất: Nói Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật, trụ trên sự kiến lập các pháp như thế này để biết tưởng thức có chỗ nương tựa. Đó gọi là Đại Bồ Tát tham vướng nơi pháp nhẫn nhu thuận, sinh ra không thuần thục.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Sao gọi là Đại Bồ Tát tịch nhiên?
Hiền Giả Tu Bồ Đề trả lời Hiền Giả Xá Lợi Phất: Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng thấy pháp nội không, chẳng thấy pháp ngoại không, chẳng thấy pháp nội ngoại không, chẳng thấy pháp không của nội ngoại không, nhưng pháp không không có pháp nội ngoại không, pháp không chẳng thấy pháp nội ngoại không.
Chẳng thấy pháp không của đại không, pháp không của pháp đại không chẳng thấy pháp không, pháp không của pháp đại không chẳng thấy pháp chân cứu cánh không, pháp chân cứu cánh không chẳng thấy pháp đại không, pháp chân cứu cánh không chẳng thấy pháp hữu vi không, pháp hữu vi không chẳng thấy pháp vô vi không.
Pháp vô vi không chẳng thấy pháp hữu vi không, pháp vô vi không chẳng thấy pháp vô thỉ vô chung không, pháp vô thỉ vô chung không chẳng thấy pháp vô vi không, pháp vô thỉ vô chung không chẳng thấy pháp không vị phân biệt, pháp không vị phân biệt chẳng thấy pháp không rộng lớn dài lâu.
Pháp không vị phân biệt chẳng thấy pháp bản tịnh không, pháp bản tịnh không chẳng thấy pháp không vị phân biệt, pháp bản tịnh không chẳng thấy pháp tự nhiên tướng không, pháp tự nhiên tướng không chẳng thấy pháp bản tịnh không, pháp tự nhiên tướng không chẳng thấy pháp nhất thiết chư pháp không.
Pháp nhất thiết chư pháp không chẳng thấy pháp tự nhiên tướng không, pháp nhất thiết chư pháp không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp nhất thiết chư pháp không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp không tự nhiên, pháp tự nhiên không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp không của tự nhiên không chẳng thấy pháp vô sở hữu không, pháp vô sở hữu không chẳng thấy pháp không của không tự nhiên.
Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Như thế Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật có khả năng như thế thì Bồ Tát đã đạt tịch nhiên.
Lại nữa thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát muốn hành bát nhã Ba la mật thì nên học thế này, nên thuận theo như thế này: Chẳng nên nghĩ sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Đối với thức chẳng nên nghĩ thức, chẳng nên nghĩ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Chẳng nên nghĩ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Chẳng nên nghĩ Thí Ba la mật, Giới Ba la mật, Nhẫn Ba la mật, Tinh tấn Ba la mật, Thiền Ba la mật, bát nhã Ba la mật. Cũng chẳng nên dựa vào bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám Thánh Đạo, mười lực, bốn vô sở úy, bốn phân biệt biện, bốn đẳng tâm, mười tám pháp bất cộng của Phật.
Như vậy, thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát hành bát nhã Ba la mật chẳng nên nghĩ Đại Bồ Tát, mà nên nghĩ tâm bình đẳng vô đẳng, nhập tâm vi diệu.
Vì sao?
Vì tâm ấy vô tâm, tâm ấy bản tịnh. Tâm bản tịnh là tự nhiên mà vui, trong sáng mà tịnh.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Thế nào là tâm trong sáng mà tịnh?
Hiền Giả Tu Bồ Đề trả lời Hiền Giả Xá Lợi Phất: Giả sử tâm không hợp với dục cũng không lìa dục, không hợp với sân cũng không lìa sân, không hợp với si cũng không lìa si, không trụ nhân duyên, không có ràng buộc, không bị ràng buộc, cũng không không ràng buộc, đối với tất cả nghi, sáu mươi hai kiến, không hợp không lìa, không hợp với tâm hành của Thanh Văn, Bích Chi Phật, cũng chẳng lìa hợp, thì thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất, đó là tâm của Đại Bồ Tát vốn thanh tịnh trong sáng mà tịnh.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Có tâm này chăng?
Tâm ấy vô tâm mà!
Hiền Giả Tu Bồ Đề hỏi lại Hiền Giả Xá Lợi Phất: Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Thế nào là có tâm?
Đâu có tâm này mà có thể biết là có tâm, vô tâm?
Có thể thủ đắc chăng?
Có thể nắm bắt được chăng?
Đáp: Không, thưa Hiền Giả! Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất, giả sử tâm ấy chẳng thể biết có cùng không có thì cũng không thể thủ đắc, cũng không thể nắm bắt. Lại có điều này, do nhân duyên mà có lời này là có cái tâm có tâm vô tâm này.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Thưa Hiền Giả Tu Bồ Đề! Thế nào là vô tâm?
Đáp: Không có cái tạo tác, không có điều nhớ nghĩ, đó là cái vô tâm vô niệm đối với tất cả pháp.
Hiền Giả Xá Lợi Phất hỏi Hiền Giả Tu Bồ Đề: Thưa Hiền Giả Tu Bồ Đề! Thế nào?
Người phát tâm không có cái tạo tác, không có điều nhớ nghĩ chăng?
Giả sử sắc không có tạo tác thì nhớ nghĩ, thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế.
Giả sử không tạo tác, không nhớ nghĩ thì cho đến ý Thanh Văn, Bích Chi Phật, trên đến Bồ Tát đều là vô tâm, vô niệm chăng?
Đáp: Thưa Hiền Giả Xá Lợi Phất! Tâm như thế là không tạo tác, không nhớ nghĩ.
Hiền Giả Xá Lợi Phất khen Hiền Giả Tu Bồ Đề: Hay thay, hay thay! Hiền Giả Tu Bồ Đề, Hiền Giả chính là con của Đức Thế Tôn, từ pháp sinh ra, thường tùy thuận pháp, được pháp hóa sinh, nhờ pháp mà hưng phát, nhưng không vì sự vinh hiển, do nhân duyên tự nhiên mà chứng Pháp Thân. Hiền Giả là người hành pháp không đệ nhất.
Thế Tôn khen Hiền Giả là người rõ nghĩa không hơn hết, khó bì kịp. Khó bì kịp.
Thưa Hiền Giả Tu Bồ Đề! Như thế, Đại Bồ Tát học bát nhã Ba la mật thì nên theo như thế, nên quán như thế. Người vì địa không thoái chuyển mà muốn học địa Thanh Văn thì nên học bát nhã Ba la mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghĩ.
Người muốn học địa Bích Chi Phật thì nên học bát nhã Ba la mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghĩ. Người muốn học địa Bồ Tát thì nên học bát nhã Ba la mật, nên lắng nghe, nên thọ trì, đọc tụng, thường nên suy nghĩ.
Vì sao?
Vì bát nhã Ba la mật này rộng khắp đầy đủ cả ba thừa, đó là Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật. Bồ Tát đều học thông suốt không có gì ngăn ngại.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Hữu đức Nữ Sở Vấn đại Thừa
Phật Thuyết Kinh Tám Danh Hiệu Của Chư Phật
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Bô đa Lợi - Kinh La Ma
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Quá Khứ đương đoạn
Phật Thuyết Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Phẩm Mười Ba - Phẩm Pháp Cúng Dường
Phật Thuyết Kinh Sinh - đức Phật Thuyết Giảng Về Kinh Bát Kiếp Tiên Nhân