Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Mười Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bát Nhã Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy  

PHẨM SÁU

PHẨM QUÁN THIÊN

DẠ MA THIÊN  

TẬP MƯỜI SÁU  

Hưởng lạc xong nhưng vì thiếu trí nên phân vân: Ta từ đâu đến, thân ta là thân gì?

Đây là cõi nào?

Cõi này tên gì?

Vì nghi ngờ vậy, người ấy tự suy nghĩ ví như người say rượu, lại như người ngủ. Một đêm có bốn thời đã ngủ ba thời.

Vì thời gian ngủ quá lâu nên khi thức giấc lại luôn phân vân: Ta là người gì?

Ta sống ở đâu?

Suy nghĩ một lát người ấy biết được như vậy, như vậy. Suy nghĩ mãi người ấy biết được mình bỏ thân người sinh lên Cõi Trời. Nếu khi ở cõi Diêm Phù Đề người ấy không thích cảnh giới thì khi sinh lên Trời cũng không thích cảnh giới.

Vì sao?

Vì sự huân tập cũ. Suy nghĩ mãi Thiên Tử biết được nhờ nghiệp thiện nên được sinh lên cõi này. Người chết ở cõi người được sinh lên Trời là nhờ giữ giới không tham đắm cảnh giới. Về sau từ Cõi Trời bị thoái đọa, sinh xuống cõi người. Những gì huân tập ở Cõi Trời đều có tướng tương ưng.

Những gì huân tập ở cõi người, sau khi chết được sinh lên Trời thì không thích cảnh giới, không dâm dục. Nhờ giữ giới, Thiên Tử mới sinh tuy sinh lên Trời nhưng không thích cảnh giới. Nhờ dư báo nên tâm không thích cảnh giới. Những chúng sinh ra khỏi địa ngục được sinh lên Trời là do nghiệp của chúng.

Nhờ nghiệp thiện và nguyện lực khác nên ra khỏi địa ngục được sinh lên Trời. Vì từ nơi khổ não sinh lên Trời nên khi được lạc thì tham đắm, tâm vui mừng, sân hận nhiều, tâm tham lạc vườn rừng, sông suối, ao sen, thích dạo chơi, tham ăn uống, tâm ý huân tập liên tục.

Những chúng sinh nhờ dư báo ra khỏi cõi ngạ quỷ, sinh lên Trời thì tâm luôn tham ăn uống, ở chỗ lạnh mát, thích người nữ là vì huân tập tâm ý.

Những chúng sinh nhờ dư báo ra khỏi cõi súc sinh, sinh lên Trời thì được nhiều thức ăn như ở cõi súc sinh, tâm tham dục mạnh là vì tâm ý huân tập liên tục.

Những chúng sinh ở bốn trụ xứ của cõi vô sắc bị thoái đọa sinh vào Cõi Trời, vì trước kia tu đắc Tam ma bạt đề nên được sinh lên bốn trụ xứ của cõi vô sắc nhưng nghiệp hết thì bị thoái đọa, sinh vào Cõi Trời. Đó là vì tâm ý huân tập liên tục, tham ái xúc, vị, sắc, hương.

Tuy được nhưng không tham nữa là nhờ tâm tịch tĩnh không tán loạn nhiều. Do huân tập tâm nên những chúng sinh ở quả vị thiền thứ nhất của cõi sắc, cho đến ở quả vị thiền thứ tư khi hết nghiệp bị thoái đọa đọa vào cõi dục.

Do huân tập tâm có thượng, trung, hạ, tâm thích ngồi thiền nên cảnh giới vui không nhiều. Chúng sinh ở cõi dục bị thoái đọa sinh trở lại cõi dục là nhờ sinh nghiệp. Chúng sinh ở hai Cõi Trời, người của Dục giới sắp bị thoái đọa lại sinh vào cõi dục là nhờ nghiệp thiện. Chư Thiên cõi dục có hai nghiệp thành thục, trừ Cõi Trời Tịnh Cư.

Vì Cõi Trời Tịnh cư không có sinh nghiệp và dư nghiệp thành thục. Như vậy, gió nghiệp luôn thổi vào chúng sinh làm cho lưu chuyển, bị lưới tâm, lưới nghiệp trói buộc, phân biệt, tin hiểu đủ thứ. Cứ thế lưu chuyển mãi trong năm đường.

Quán xét, suy nghĩ như vậy, Thiên Tử mới sinh mới biết mình từ cõi nào sinh đến đây, từ cõi người sinh đến đây là nhờ sinh nghiệp. Thiên Tử biết hết sinh nghiệp và dư nghiệp.

Vì sao biết Thiên Tử này không do dư nghiệp sinh?

Vì chúng sinh do dư nghiệp sinh thì phải do nhân duyên từ nhiều đời, hoặc trăm đời mới có quả báo, hoặc cả ngàn đời, trăm ngàn đời. Người không có Thiên nhãn thì không tự thấy biết. Do nghiệp nhân từ quá khứ xa xưa sinh ra.

Người do sinh nghiệp sinh thì biết được nơi thọ sinh. Quan sát nhân duyên sinh xong, Thiên Tử kiêu mạn, nhờ nghiệp thiện huân tập nên chẳng bao lâu sinh tâm tham ái cảnh giới. Thiên Tử nhớ biết hết vô số chủng loại. Lại nghĩ ta nay đã sinh lên trụ xứ Quảng Bác Hành của cõi Dạ Ma.

Vừa nghĩ như vậy, các Thiên Nữ xuất hiện trước mắt, nhờ nghiệp thiện các Thiên Nữ đó vội chạy đến vây quanh Thiên Tử. Những Thiên Nữ đã thọ sinh từ lâu thì không hổ thẹn, muốn chạy nhanh ôm lấy Thiên Tử, cùng vào rừng thọ lạc. Nhờ nghiệp thiện được các Thiên Nữ xinh đẹp đáng yêu cùng thọ lạc.

Cõi ấy có núi rừng, ao sen, hang khe, sông suối, đất bằng đẹp. Có hang bằng vàng, nhà cửa bằng cành cây, chim chóc hót rất hay, vô số Thiên Nữ cùng nhau bao quanh ca múa vui chơi hưởng lạc tại đó. Rừng đó có loài nai bằng bảy báu đi lại khắp nơi, họ nhìn ngắm mọi thứ đáng yêu. Cõi ấy có núi tên Quảng Thiểu, đỉnh núi trang trí bằng bảy báu sáng rực, đá báu xen lẫn, ao sen bằng bảy báu.

Trong rừng có nhiều ao hồ, nhờ nghiệp thiện nên mọi nơi đều đẹp. Họ ở đó ca múa vui chơi hưởng lạc. Chư Thiên cùng thọ lạc xong, lại vào nước vui chơi, cứ thế họ sắp rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nhờ nghiệp thiện nên vui chơi mãi. Chư Thiên ấy tự hiện nghiệp tướng, danh tự, trên thân.

Từ nơi thân họ biết được tên tuổi hình tướng của mình vào đời trước tạo nghiệp lành gì, tu bằng tâm nào, làm vào lúc nào, do nhân gì, sinh ở cõi nào?

Phước đức thượng, trung, hạ, đầy đủ tài vật, ví như người vẽ giỏi vẽ mọi ở khắp nơi đều rõ ràng, tên tuổi của vị Trời ấy cũng vậy. Họa sư nghiệp thiện vẽ hết các nghiệp lành ở cõi lành, hình sắc, ánh sáng đều rất đáng yêu, vẽ vị Trời ấy ai cũng thích nhìn.

Như hình sắc đẹp của nghiệp thiện mà có ra thân vị Trời ấy. Do vẽ như vậy nên hình tướng, danh tự hiện ra rất đẹp như luyện vàng ròng, các báu xích liên hoa, báu xanh xinh đẹp đáng yêu. Thân tướng của vị Trời ấy xinh đẹp gấp trăm lần. Tướng vẽ đó họ không tự thấy được.

Vì sao?

Vì là tướng dưới cằm, trên yết hầu nên không thấy được. Thiên Tử nào chưa phóng dật thì nhìn nhau thấy được. Lại nhờ nghiệp thiện khác họ nhìn nhau thấy được tướng này. Chư Thiên cõi Quảng Bác Hành có những việc hy hữu như vậy. Thiên Tử ấy lại có tướng lạ khác, tướng trên trán cũng như tướng yết hầu nhờ nghiệp thiện nên có những sắc tướng do nghiệp tạo ra như vậy.

Ngay giữa trán mình Thiên Tử thấy hết sắc tướng của những việc vì sao bị thoái đọa, lúc nào thoái đọa, thoái đọa thì sinh vào đâu?

Những tướng lạ này đều do nghiệp tạo ra. Mọi thứ trên thân Thiên Tử ấy như vòng hoa… đồ xinh đẹp giống như vòng hoa trang sức trên đầu của Chư Thiên cõi khác. Nhờ nghiệp thiện tự thân thành thục nên được quả báo cùng các Thiên Nữ vẽ ra các thân đẹp vui chơi thọ lạc ở khắp các vườn rừng của cõi Quảng Bác Hành.

Thọ lạc xong, họ đi đến sông Thiện Tạp. Sông ấy bắt nguồn từ núi Tạp ái chảy xuống nên gọi là Thiện Tạp. Sông ấy có nhiều vật báu, chim chóc hót rất hay, cây cối sum suê, bờ sông có đủ các loại hoa đẹp nhiều màu sắc khác nhau, vô số Thiên Nữ vui chơi trên bờ sông. Lại có dòng sông đẹp khác tên Tạp Hà.

Sông này bắt nguồn từ núi Tạp Sắc Nham nên gọi là Tạp Hà. Thiên Tử nào đến sông này sẽ nhớ được nơi sinh của mình. Nếu Thiên Tử ấy từ cõi địa ngục thọ sinh ở đây thì cũng biết rõ, biết rồi thì có đủ năm dục với các công đức đáng yêu. Các Thiên Nữ vui mừng dạo chơi thọ lạc.

Vì biết được khổ não mình từng chịu nên quên hết hoan lạc, chán dục, nói kệ:

Trong ngọn lửa địa ngục

Tất cả khổ vô cùng

Chúng ta hết nghiệp ác

Được sinh ở cõi này.

Nghiệp thiện quả cũng thiện

Trang sức các công đức

Nghiệp ác nên quả khổ

Chắc chắn chịu như vậy.

Ta ở trong khổ vui

Lưu chuyển trong sinh tử

Bị gió nghiệp thổi động

Như sóng trong biển lớn.

Những kẻ tâm tạo ác

Thích làm những việc ác

Vì không tạo nghiệp lành

Nên đọa vào địa ngục.

Ra khỏi địa ngục ấy

Sinh lên Cõi Trời này

Quên khổ não cõi ấy

Nên lại tham dục lạc.

Cảnh giới lưu chuyển này

Khổ vui cứ nối nhau

Nhưng tâm rất bền chắc

Chịu khổ không biết mệt.

Bờ khổ vui nối nhau

Dối gạt hết các căn

Và lưới ái trói buộc

Trôi trong vòng sinh tử.

Bỏ ngục, sinh cõi quỷ

Hết quỷ làm súc sinh

Dần dần thành loài rồng

Rồng chết sinh ba chỗ.

Nghiệp lưu chuyển trong đời

Cũng như bánh xe lăn

Vì tập khí từ lâu

Không sinh tâm mỏi mệt.

Tham cung điện cõi rồng

Không thích khổ địa ngục

Lưu chuyển trong ngục hữu

Có nơi vui nơi khổ.

Ngàn khổ Bát Đầu Ma địa ngục

Trăm ức Bát Đầu Ma

Chịu khổ như thế đó

Vì si không biết mệt.

Ba cõi đều không vui

Tất cả đều là khổ

Chúng sinh bị si gạt

Mà không biết mỏi mệt.

Đã chịu khổ như vậy

Vì si tạo nhân khổ

Do nhân nên có quả

Như trái từ hạt giống.

Cảnh giới mê hoặc tâm

Dũng mãnh có sức lớn

Chúng sinh đều phục tâm

Để luôn được tịch tĩnh.

Tâm đã điều phục rồi

Cảnh giới sẽ chuyển theo

Luân hồi trong ba cõi

Không thấy được chân đế.

Ví như do gió thổi

Làm sóng biển nổi lên

Chính vì tâm làm duyên

Luôn luân chuyển trong đời.

Chúng sinh ham người nữ

Lệ thuộc trong khổ vui

Không đến được cõi lành

Nơi chẳng còn khổ não.

Ai nghĩ đến khổ não

Sẽ sinh tâm nhàm chán

Vừa quên hết khổ não

Là tham lạc phóng dật.

Người nào nhớ biết được

Khổ não của địa ngục

Dục lạc trong Cõi Trời

Nhỏ như những hạt bụi.

Vị Trời ấy nhớ hết nơi mình từng thọ sinh, ở bên sông Tạp Hà của núi Tạp Sắc Nham, Thiên Tử lại nhớ hết nơi mình từng thọ sinh, nếu bỏ đi thì quên hết nơi thọ sinh cũ, quên hết khổ. Vì quên hết nên tham đắm cảnh giới, thọ hưởng dục lạc nơi sắc, thanh, hương, vị, xúc. Hưởng lạc xong họ lại đến núi Cửu Dục đáng yêu.

Núi ấy có dòng sông, ao sen đẹp, nước trong sạch chảy quanh núi. Trong ao có nhiều thiên nga, vịt Trời, uyên ương đẹp, hai bên bờ sông bằng báu vàng, nước sông chảy tạo đủ âm thanh. Núi ấy có cả vạn dòng sông như vậy. Cây cối sum suê chim chóc vui nhộn.

Trong các dòng sông ấy có bốn sông đẹp nhất:

1. Tốc lưu.

2. Kim man.

3. Tỳ lưu ly thủy.

4. Lạc phiêu.

Do nghiệp quả thành thục nên Chư Thiên rất vui, trang sức đủ các y phục, vui chơi thọ lạc đến sông Tốc Lưu. Gần bờ sông có hoa dài đẹp, có rừng lớn tên Vô Lượng Lạc, hoa nở rộ, cành cây che rợp, không có chỗ trống, có trăm ngàn hoa đẹp.

Trong sông có nhiều loài chim, thân chim bằng tạp bảo, tiếng chim vang khắp nơi. Bờ thứ hai của sông Tốc Lưu có ao tên Túy Phong tuần hành như Mặt Trời mới mọc. Trong ao có hoa sen đỏ thơm xông khắp ao. Hai bờ ao, một bên có rừng, một bên có ao hoa. Sông ấy dài năm trăm do tuần, rộng năm do tuần.

Nước sông trong trên mặt nước có hoa mọc kín, cánh hoa đủ màu có hương thơm dịu. Hương ấy xông khắp năm do tuần. Chư Thiên cõi ấy, có người ở trong rừng, người ở trong ao sen tha hồ vui chơi thọ lạc cùng Thiên Nữ vui chơi thọ lạc, thân phóng ánh sáng.

Nhờ sức nghiệp thiện Chư Thiên cõi Quảng Bác Hành vui chơi thọ lạc trên bờ sông Tốc Lưu. Sông Kim Man thì bắt nguồn từ đỉnh núi Y. Sông này rất đẹp ở đỉnh núi Y giống như vòng hoa vàng nên gọi là sông Kim Man.

Sông này có công đức: Nước sông là rượu nhưng không có lỗi lầm say, đầy đủ sắc hương vị xúc vừa ý, tùy ý muốn không trở ngại, không tán loạn. Thiên Tử cùng Thiên Nữ uống rượu thọ hưởng hoan lạc.

Mỗi Thiên Tử có vô số Thiên Nữ vây quanh, tâm ý tham đắm cảnh giới của năm dục, nghe năm âm nhạc hay cùng Thiên Nữ tha hồ thọ hưởng hoan lạc bên bờ sông Kim Man không biết chán cảnh giới. Họ lại vui chơi thọ lạc từ thung lũng này qua thung lũng khác, từ ao sen này đến ao sen khác, từ vườn cây này đến vườn cây khác, từ gốc cây này đến gốc cây khác.

Cứ thế họ đi khắp nơi thọ nhận dục lạc. Sau đó họ lại đến sông Tỳ Lưu Ly thứ ba. Nước sông trong sạch như lưu ly, cây cối bằng lưu ly, chim bằng lưu ly bay nhảy trên sóng nước. Nước sông sạch, sâu, chảy rất chậm tạo ra tiếng hay. Nhờ oai lực nơi nghiệp thiện nước sông lưu ly rất đẹp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần