Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Chín - Phật Nói Kim Cang Tạng đại Oai Thần Lực Tam Muội Pháp ấn Chú - Tập Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường

PHẬT THUYẾT

KINH ĐÀ LA NI TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

A Địa Cồ Đa, Đời Đường  

PHẦN CHÍN

PHẬT NÓI KIM CANG TẠNG

ĐẠI OAI THẦN LỰC

TAM MUỘI PHÁP ẤN CHÚ  

TẬP MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thời Đức Phật ngự tại núi Tỳ Phú La. Vipula cùng với A tăng kỳ các Chúng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát kèm với vô số các A La Hán, tám Bộ Trời Rồng trước sau vây quang cùng chung dự hội, nói Đà La Ni Ấn Bí Mật Pháp Tạng.

Bấy giờ, trong hội có một Bồ Tát Ma Ha Tát tên là Kim Cang Tạng. Vajragarbha ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi năm vóc sát đất, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật.

Lễ bàn chân Phật xong, tiến lên phía trước bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có quyến thuộc. Parivāra bốn mươi bộ chúng, mỗi mỗi quyến thuộc đều có vô lượng đồ chúng đi theo, hiện ở trong hội, chịu sự sai khiến của con. Từ xưa đến nay từng trì Chú Pháp, hiểu rõ ràng sâu xa huyền ảo, nghiêm mật thanh tịnh.

Thế nên cùng nhau khen ngợi thành pháp của con, xưng tên của con là Ma Ha Bạt Chiết La Ba Ni La Xà.

Mahā vajra pāṇi rāja: Đại Kim Cang Thủ Vương. Do tên gọi đó nên xưng là Thượng Thủ. Pramukha. Chúng con cũng nguyện kiên thành trợ giúp chánh pháp. Sad dharma của Phật. Các quyến thuộc này ở hai bên trái phải của con xếp bày oai nghi hầu cận, nói các phương tiện có nhiều lợi ích, vì muốn hàng phục tất cả các Ma quỷ thần ác.

Nguyện xin Đức Thế Tôn chứng minh cho chúng của con, nghe hứa cho con xưng tên gọi của quyến thuộc thời con mới dám xưng tên gọi.

Khi ấy, Đức Thế Tôn bảo Kim Cang Tạng: Lành thay! Lành thay! Nay ông thương nhớ các chúng sanh cho nên xưng tên gọi ấy. Ta cũng ấn khả. Nay tùy theo ý của ông mà xưng tên gọi ấy.

Thời Kim Cang Tạng nương vào sự nghe hứa của Phật liên xưng tên gọi ấy là: Bạt Chiết La Tô Ma Ha. Vajra sumahat, Bạt Chiết La Tô Bà Tư Địa Ca La, Bạt Chiết La Tô Bà Hô. Vajra subahū, Bạt Chiết La Ni Củ Lô Đà.

Vajra krodha, Bạt Chiết La A Mật Lý Đa Quân Trà Lợi. Vajra amṛta kuṇḍalī, Bạt Chiết La Ô Sô Sa Ma. Vajra ucchuṣma, Bạt Chiết La Tra Ha Sa. Vajrāṭṭa hāsa. Nhóm Bồ Tát này đều ở bên trái của con.

Bạt Chiết La Ma Ma Kê. Vajra māmakī, Bạt Chiết La Lô Hề Đa Mộc Xí. Vajra lohita mokṣī, Bạt Chiết La Thương Ca La. Vajra śaṃkhara, Bạt Chiết La Ương Câu Thi. Vajrāṃkuśī, Bạt Chiết La Mẫu Sắt Đê. Vajra muṣṭī, Bạt Chiết La Thí Ca La. Vajra śekhara, Bạt Chiết La Ni Lam Bà La Đạt La. Vajra nīlambaradhara. Nhóm Bồ Tát này đều ở bên phải của con.

Trong các Hội này: Hoặc Trời, hoặc người với các Ma Vương. Māra rāja kèm với hàng quỷ thần… nghe tên gọi Kim Cang mà con đã xưng này, mỗi mỗi đều mất dung nghi, thảy đều yên lặng, tâm ôm giữ sự kinh sợ, lo buồn chẳng thích thú, có đủ việc lớn, sợ mất tánh mạng.

Thời nhóm Kim Cang từ xa biết ý ấy, lo trong hội sanh khinh mạn, quỷ thần bạo loạn, chẳng tuân kính pháp.

Lại sợ chê bai bị rơi vào ba đường, chịu các khổ não, nên bảo với họ rằng: Ta có mật ý, đủ các pháp tướng, Đức Phật đã biết trợ thành ấn khả, chẳng phải là cảnh giới mà các ngươi đã biết. Thế nên xưng nói Đại Đà La Ni.

Thần Chú Pháp ấn của tạng pháp bí mật, lợi ích vô lượng như Đức Phật đã chứng thời, Đức Phật khen rằng: Lành thay! Lành thay!

Bấy giờ, nhóm Chúng Kim Cang Bồ Tát nương theo sự tán thành của Đức Phật, liền vui mừng hớn hở, đảnh lễ bàn chân của Đức Phật, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi bảo tất cả hàng ma quỷ kia rằng: Nay chúng tôi dùng Pháp thành, thực hành, mong tất cả Chư Phật mười phương đồng thời ấn khả, lợi ích cho tất cả. Nay các ngươi đừng kinh hãi, đừng hèn yếu, đừng khởi niệm ác.

Ngay trong Hội này: hoặc Trời, hoặc Người, hoặc có Sa Môn, hoặc Bà La Môn, hoặc các Nhân Vương, hoặc Thiên Đế Thích cùng với tám bộ, chúng quỷ thần bộ, người, phi nhân… hoặc thiện nam tử, thiện nữ nhân với các chúng Tiên Nhân ngoại đạo thảy đều nghe cho kỹ.

Nay ta dâng lên giáo pháp đáng quý của tạng pháp bí mật sâu xa chẳng thể nghĩ bàn của Phật. Các ngươi đều nên tin nhận. Cùng nhau hộ giữ Kinh này, tức là đồng với pháp hiếm có trong Đại Thừa Diệu Tạng của Chư Phật, tức là thành tựu pháp môn Đà La Ni Ấn Thần Chú.

Đức Như Lai từ bi bày các phương tiện cứu giúp tất cả loại chúng sanh. Các ngươi nếu có cớ sanh trái nghịch mà chẳng tùy thuận chánh pháp của ta thì sẽ phá vỡ cái đầu của các ngươi làm bảy phần như cành cây A Lê.

Arjaka: Cây hoa Lan. Đại chúng, người dân nghe điều Đức Phật đã nói nên đều vui vẻ, tin nhận phụng hành pháp vẽ tượng Kim Cang Tạng Bồ Tát.

Tượng Nhất Thiết Kim Cang Tạng Bồ Tát, toàn thân màu vàng, bàn chân trái nghiêng một bên, bàn chân phải rũ nghiêng xuống, muốn tựa như ngồi xuống mà hình lại đứng lên, ở ngay trên tòa hoa sen báu, như nghiêng thân mặt hướng về bên phải nhìn rồi ngồi. Đầu đội mão hoa có bảy báu trang nghiêm, thân có vòng hào quang. Lưng Tượng ấy dựa trên cái gối gấm báu.

Tượng ấy: Tay trái co cánh tay che trên bắp đùi trái. Tay phải co cánh tay ngay trên đầu gối phải đem đầu ngón cái, ngón trỏ vịn nhau rồi co ngón giữa với ngón vô danh ngay trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón út. Bên dưới cổ Tượng ấy có Anh Lạc ngọc báu.

Hai cánh tay, cổ tay đều đeo vòng xuyến báu, dùng một dải lụa mỏng trắng tinh quấn trên bắp tay ấy kèm với hai dây tơ màu phụ trên dải lụa ấy. Lại dùng dây tơ báu cột trên eo, rốn. Dây tơ ấy thắt gút ngay bụng làm một hình tròn màu vàng lớn như đồng tiền.

Dùng lụa gấm màu mây hồng lúc bình minh che trên háng, mặc quần lụa hoa màu trắng, quần ấy lót màu xanh, để lộ cẳng chân, bàn chân. Dùng sợi dây báo làm dây đai cột eo lưng.

Hai gian trái phải của Tượng đều có một Đại Thị Giả Bồ Tát đứng trên hoa sen, toàn thân màu vàng, dùng lụa gấm màu mây hồng lúc bình minh che phủ eo, háng kéo dài đến trên đầu gối, đầu đều đội mão hoa bảy báu.

Vị Thị Giả Bồ Tát ở gian bên trái ấy, chỉ dùng tay trái co tay gần sát vú phải cầm cây phất trắng, đầu cây phất ở ngay bên trên bắp tay trái. Tay phải duỗi cánh tay, hơi co lại ở bắp đùi, ngón tay hơi nắm lại. Cánh tay, cổ tay có vòng xuyến.

Vị Thị Giả Bồ Tát ở gian bên phải ấy có mão hoa, quần áo cùng một loại với vị Bồ Tát ở gian bên trái. Chỉ dùng tay trái co cánh tay gần sát vú trái, cầm Bạt Chiết La.

Vajra: Chày Kim Cang. Tay phải co cánh tay hướng lên trên, ngửa bàn tay ở khoảng eo, cầm cây phất trắng bung tán sợi phất không dính nhau, rũ đầu cây phất xuống bên dưới.

Gian bên trái của Tượng ấy, bên cạnh bắp đùi của Tượng có một vị Bồ Tát, toàn thân màu xanh biếc, ở trên đầu hiện ra hình Tam Cổ Bạt Chiết La.

Chày Kim Cang có ba chấu, bên dưới Bạt Chiết La ấy có dải lụa đào, dải lụa ở trên cái đầu ấy. Tiếp theo bên dưới lại có dải lụa màu vàng ràng quấn cái đầu, che lỗ rốn, tóc mai, vầng trán, chỉ hiện ra mặt mắt, góc của tròng mắt ấy như cái đai hơi đỏ tựa như nghìn ngó nghiêng.

Hình trạng của Tượng ấy như tướng sân nộ, hai cánh tay cài chéo dính với nhau, bên phải đè bên trái, phụ vào khoảng nách, nghiêng bàn chân ấy giao chéo nhau ngồi, dựng bắp đùi trái, ở bắp đùi ló ra một con rắn màu đỏ quấn cái bụng với bàn chân, từ bắp đùi ló đầu ra hướng về khuỷu tay trái nhìn thân Tượng. Thân Tượng ấy ngồi trên hoa sen đỏ.

Hai gian trái phải của Tượng ấy đều có bốn vị Bồ Tát, trên dưới đều ngồi mà làm oai nghi, trợ giúp Kim Cang Tạng hàng phục tất cả.

Tiếp theo bên trái, một vị Bồ Tát bên trên có toàn thân màu vàng, đầu đội mão hoa, tai có cái vòng màu trắng.

Phía sau đảnh đầu của Tượng ấy có hào quang tròn màu đỏ, dùng lụa trắng điểm hoa quấn cánh tay phải ấy, hướng về phía sau rồi ló ra trên khoảng nách trái ràng quấn bắp tay ấy. Tay phải co cánh tay ở trên bắp đùi phải, đem ngón cái, ngón trỏ vịn nhau. Co ngón giữa, ngón vô danh ngay trong lòng bàn tay.

Dựng thẳng ngón út. Tay trái co cánh tay đặt ngang ở khoảng bàn chân và bắp đùi trái, tay cầm một vật, vật làm màu xanh lục, vật ấy hướng lên trên, đầu hơi nhọn dần, hướng xuống bên dưới thì thô vuông dần mà lại tròn.

Đường nói là Ngoa Tì, chính giữa có một đường màu xanh, dựng đầu hướng lên trên thân ấy, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, ngồi nghiêng một bên trên hoa sen đỏ.

Tiếp theo bên dưới, một vị Bồ Tát toàn thân màu vàng, đầu đội mão hoa, làm hào quang tròn màu xanh, hai tai của Tượng đều có Bảo Đang. Châu ngọc báu đeo ở lỗ tai có bọc màu đỏ, môi màu trắng xuyên ở trong lỗ tai.

Dùng lụa trắng điểm hoa quấn lót trên bụng. Tay phải co cánh tay, đem ngón cái, ngón trỏ vịn nhau, bung tán ba ngón còn lại, dùng bàn tay che ngay trên vú phải.

Tay trái co cánh tay đèn ngay trên khoảng bắp đùi, đầu gối trái, ngửa lên nâng cầm vật mà Bồ Tát lúc trước đã cầm trong tay, tựa như Ngoa Tì, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, ngồi nghiêng một bên trên hoa sen xanh.

Tiếp theo bên dưới có hai vị Bồ Tát trước sau đều ngồi. Một vị Bồ Tát phía sau có toàn thân màu vàng. Đầu hơi nhỏ, làm hào quang tròn màu xanh, tai có cái vòng màu trắng, đầu đội hoa tóc mượt, vú lớn dùng lụa trắng điểm hoa quần quanh trên vú. Tay phải co cánh tay, đem ngón cái, ngón trỏ vịn nhau, ba ngón tay nắm quyền.

Tay trái co cánh tay, giương duỗi lòng bàn tay nằm vật mà Bồ Tát lúc trước đã cầm trong tay tựa như Ngoa Tì, mặc quần lụa vàng điểm hoa, quỳ hai đầu gối ngồi trên hoa sen đỏ.

Tiếp theo, một vị Bồ Tát phía trước, toàn thân màu vàng, quay mặt hướng về bên trái, dạng như hình tự nói chuyện với Bồ Tát phía sau, đầu có một đường dây vàng ròng quấn búi tóc, làm hào quang tròn màu đỏ.

Trong một lỗ tai trái đeo một bảo đang dạng như cái thùng ngói bọc màu đỏ, môi màu trắng, lảm hào quang tròn màu đỏ. Tay phải co cánh tay sát cạnh cái vú, co ngón giữa với ngón vô danh trong lòng bàn tay, dựng bung ngón cái, ngón trỏ, ngón út, ngửa lòng bàn tay ấy.

Tay trái co cánh tay để ngửa ngay trên đầu gối trái, lại nâng vật mà Bồ Tát lúc trước cầm trong tay tựa như ngõa tì hướng về thân, nghiêng bên đầu vật ấy có hình tựa như làm móc câu, hướng ra bên ngoài hơi co cánh tay, cổ tay có vàng xuyến, thân mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, ngồi nghiêng một bên trên hoa sen tím.

Gian bên trái của Tượng ấy, một vị Bồ Tát bên trên, toàn thân màu vàng, trên đầu tóc ấy dùng màu hơi đỏ ràng quấn hướng về phía sau, làm hào quang tròn màu đỏ.

Lổ tai có một đôi vật báu màu đỏ, ngắn nhỏ như cái đũa cắm ở trong tai, hai đầu vật ấy đều có điểm màu trắng, dùng lụa màu xanh lục quần trên bắp tay ấy, mặc quần lụa trắng điểm hoa ló ra ở eo lưng hơi có chút màu mây hồng lúc bình minh.

Tay trái co cánh tay ngay trên đầu gối trái, ngửa lòng bàn tay hướng về thân, dựng hai ngón: Ngón cái, trỏ cầm một Bạt Chiết La, ngửa lòng bàn tay ấy. Tay phải co cánh tai, duỗi lòng bàn tay gần sát khoảng bắp đùi, cẳng chân bên trái. Giao chéo bàn chân rồi ngồi trên hoa sen đỏ.

Tiếp theo, vị Bồ Tát bên dưới, toàn thân màu hồng, đầu đội mão hoa, làm hào quang tròn màu xanh, tai có cái vòng màu trắng, hình mạo mập mạp, thân khoác lụa màu, quấn che háng, lại từ bên dưới nách phải với trên bắp tay có một đường lụa hướng về phía sau ló ra, quấn khoảng khuỷu tay trái.

Tay phải co cánh tay ngay trên đầu gối phải, lòng bàn tay hướng về thân, dem ngón cái, ngón trỏ cầm một mũi tên với đuôi tên hướng lên trên.

Tay trái co cánh tay gần trên cái bụng, tay cầm một khối vật báu màu vàng, hai bàn chân trụ với nhau, cúi thân rồi ngồi trên hoa sen đỏ.

Tiếp theo bên dưới có hai vị Bồ Tát trước sau đều ngồi. Một vị Bồ Tát phía sau, toàn thân màu vàng, trên đầu có mão hoa vàng ròng, làm hào quang tròn màu xanh, tai có cái vòng màu trắng, dùng lụa trắng điểm hoa quần trên bắp tay ấy.

Tay phải co cánh tay ngay trên đầu gối phải, duỗi lòng bàn tay hướng ra ngoài, dùng bàn tay cầm vật mà Bồ Tát lúc trước cầm trong tay tựa như ngõa tì. Tay trái co cánh tay hướng về phía trước dựng đứng, co ngón vô danh, dựng ngón cái, ngón trỏ, ngón út. Trên thân ấy mặc quần lụa hoa màu vàng, quỳ gối rồi ngồi trên hoa sen đỏ.

Tiếp theo, vị Bồ Tát phía trước, toàn thân màu vàng, đầu đội mão có chút hoa cúc vàng, tai có cái vòng báu màu trắng, quay mặt hướng về phía sau, dạng như hình tự nói chuyện với Bồ Tát phía sau, vú lớn, dùng lụa màu trắng mịn quấn trên bắp tay ấy.

Tay phải co cánh tay hướng ra bên ngoài cầm một vật màu vàng, vật ấy có dạng tựa như đoạn dây từng, hai đầu vật ấy có hoa cúc nhỏ nối tiếp nhau thành sợi dây, móc rũ xuống bên dưới.

Tay trái co cánh tay để trên trái tim, hướng lòng bàn tay ra ngoài, đem ngón cái, ngón trỏ vịn nhau, đều co ngón giữa, ngón vô danh, dựng thẳng ngón út, mặc quần màu mây hồng lúc bình minh, giao chéo chân rồi ngồi trên hoa sen xanh.

Bên cạnh Tượng ấy an bày đất màu xanh lục. Bên trên Tượng, hai bên cạnh vẽ làm Tu Đà Hội Thiên ở trong mây xanh, hai tay đều nắm rũ vòng hoa, hướng đến trên Tượng mà làm cúng dường.

Hai bên Tượng ấy có nhóm hình cây Bối Đa. Pattra với núi. Bên dưới tòa hoa của Tượng ấy làm cái ao báu.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần