Phật Thuyết Kinh đà La Ni Tập - Phần Tám - Thập Nhất Diện Quán Thế âm Thần Chú Kinh - Tập Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẬT THUYẾT
KINH ĐÀ LA NI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
A Địa Cồ Đa, Đời Đường
PHẦN TÁM
THẬP NHẤT DIỆN
QUÁN THẾ ÂM THẦN CHÚ KINH
TẬP SÁU
12. Dùng đồng với Ấn lúc trước.
Pháp Ấn Chú này gọi là Đại Tán Hoa Ấn Đà La Ni.
Nếu có Tỳ Kheo, hoặc Tỳ Kheo Ni, hoặc thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân… trì pháp Ấn Đà La Ni Tạng, các Thần Chú này.
Mỗi lần ở trong tất cả các Phật Hội, nơi nơi chốn chốn khắp cả là Đạo Tràng, làm pháp Ấn này, trong Ấn nâng giữ hoa hương đủ màu, khen tụng Chú trước đủ ba lần xong, rải tán hoa hương ấy ở các Phật Hội, mọi loại làm pháp, dùng thanh vận uyển chuyển xưng dương khen ngợi, vây quanh lễ bái với làm nhóm tiếng Phạm Âm, trống, đàn… ca vịnh, chúc tụng vang dội.
Mọi loại âm tiếng hợp với nhạc Trời trợ thành âm tiếng ấy… tự nhiên cảm động mười phương tất cả Chư Phật, chúng Thánh… sẽ khiến tất cả Chư Phật nghe thấy đều sanh vui vẻ, ưa thích đồng ở một nơi thường làm bạn lữ.
Tất cả Bát Nhã Bồ Tát nghe thấy, nguyện khắp cả chúng sanh xa lìa nẻo ác, mau lên bờ kia, được thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Tất cả Bồ Tát nghe được âm thanh này đều đứng dậy nhảy múa, chứng thành, tán trợ thế lực ấy.
Nếu người khen ngợi ấy, khi hết mạng thời tất cả Bồ Tát đi đến nghênh đón. Người khen ngợi ấy chẳng sợ tám nạn, vào thẳng Phật Hội.
Tất cả Kim Cang nghe âm thanh này đều sanh vui vẻ, nguyện khắp cả Chư Phật thường hành từ bi, cứu các chúng sanh.
Tất cả Chư Thiên nghe âm thanh này đều sanh hớn hở, nguyện các chúng sanh thường nhận được sự an vui.
Tất cả Nghiệp Đạo nghe âm thanh này đều nới lỏng pháp, khiến phóng Đại Hồng Ân.
Chúng sanh trong địa ngục nghe âm thanh này thì vật dụng gây khổ, gông cùm, xiềng xích một thời đều vỡ nát. Nước nóng ngưng phun trào, than trong lò dừng thiêu đốt, được trong mát khoái lạc. Băng lạnh được nóng ấm, sông tro đều khô cạn… Nói lời cốt yếu là mọi khổ đau trong tất cả địa ngục tự nhiên giải thoát.
Tất cả quỷ thần nghe âm thanh này thì tất cả đều pháp tâm Bồ Đề, lìa thân quỷ thần, sanh vào cõi người, Trời… gặp Phật nghe pháp.
Tất cả quỷ đói nghe âm thanh này đều nương nhờ Cam Lộ, tràn đầy thức ăn uống, không còn tưởng đói khát.
Tất cả súc sanh nghe âm thanh này thường được an vui, chẳng sanh oán khổ. Liền được buông lìa thân súc sanh, nếu sau khi chết tùy theo Phật Thọ Ký.
Lại nữa, khi Hành Giả làm pháp này thời cảm được tất cả Chư Phật, mỗi một Như Lai, mỗi một Bồ Tát, mỗi một Kim Cang, mỗi một Trời Rồng cho đến các nhóm quỷ thần thuộc tám bộ… trong pháp giới. Dharma dhātu, mỗi mỗi vị đều đem cho các hương hoa báu, Anh Lạc trang nghiêm với các phướng phan, mọi loại lọng báu màu nhiệm, các vật dụng trang nghiêm, mọi loại kỹ nhạc, mọi loại thức ăn uống tràn đầy hư không thảy đều trợ giúp cho Hành Giả cúng dường.
Do Hành Giả này làm Ấn, tụng Chú, tán thành sức oai thần của Bồ Tát cho nên được công đức như vậy. Giả sử lại có người, mỗi buổi sáng sớm, rửa tay lau mặt xong, hướng trước Tôn Tượng chắp tay, nhất Tâm tụng Chú ba biến thì hơn hẳn công đức đem mọi loại hương hoa, thức ăn uống cúng dường mười vạn ức Phật. Huống chi là làm Ấn như pháp cúng dường.
Thần lực của Chú này nói chẳng thể hết. Nay chỉ lược nói.
Lễ Bái Ấn Chú thứ hai mươi sáu:
Hai bàn chân, đầu gối ngồi sát đất. Trước tiên, chắp tay đem đầu các ngón tay cài chéo nhau đưa vào ngang bằng nhau, bên phải đè bên trái.
Làm Ấn này xong, lễ bái Quán Thế Âm với lễ Tam Bảo. Từ từ kèm hai đầu gối hạ xuống sát đất, ngồi định, cúi đầu sát đất lễ.
Chú là:
Úm a lê gia bà lộ chỉ đế nhiếp bạt la gia Bồ Đề tát đỏa gia ma ha tát đỏa gia ma ha ca lô ni ca gia đá điệt tha bát la ni bát tra tỳ trinhã ba dạ di bà già phạm ma ha ca lô ni ca sa ha.
Pháp Ấn Chú này. Nếu làm Đạo Tràng với thường cúng dường. Tùy theo nơi gặp thấy các Phật Hội, khi tùy vui thì nên làm Ấn này, chí tâm tụng Chú, khen ngợi Tam Bảo, làm lễ, bái lạy một lần thì hằng hà sa câu chi Chư Phật trong tất cả cõi nước ở khắp các mười phương… đều cho thọ ký, diệt trừ cho người tán lễ: Tội chướng từ vạn đời trở đi đều trừ khử hết không còn dư sót.
Khi lâm chung thời Chư Phật mà người ấy đã lễ tán, đều đi đến nghênh tiếp, chặt đứt nghiệp đạo, chẳng sợ các nạn, vào thẳng Phật Hội, quyết định chứng được vô sanh pháp nhẫn, thành bất thoái địa.
Tỳ Xã Phú La Ca Ấn thứ hai mươi bảy Vīja pūraka. Đầy đủ Nhân Đường nói là Cam Quả Ấn.
Hai tay: Đem hai cổ tay dính nhau, bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống cùng dính đầu ngón, mở chính giữa lòng bàn tay, kèm duỗi thẳng hai ngón cái, để đầu ngón ngay lóng giữa của ngón trỏ, đảo ngược xuống dưới co lại, ló đầu ngón ở lóng bên dưới nơi lưng hai bàn tay.
Ấn này cùng đồng với Khất Nhi Chú. Chú cầu xin con bên trên.
Tỳ Cư Lợi Đa Ấn thứ hai mươi tám Vikrodha. Tự do từ sự phẫn nộ Đường nói là Sân Ấn Đệ Nhất Diện. Khuôn mặt thứ nhất.
Đứng dậy, để các ngón chân bằng nhau. Co ngón út trái, đem ngón cái đè trên móng ngón, tách mở ba ngón còn lại duỗi thẳng, đem ba ngón để ngang trên trán. Để hổ khẩu của tay phải chống bên cạnh eo phải, hướng bốn ngón về phía trước, mặt làm hình giận dữ.
Pháp Ấn Chú này. Nếu làm Ấn này tồi phục tất cả Ma ác, ngoại đạo đều không có sợ hãi. Nơi làm Ấn này thì tất cả quỷ thần vĩnh viễn không có vậy.
Ly La Ấn thứ hai mươi chín Đường nói là Cao Mạn Ấn Đệ Nhị Diện. Khuôn mặt thứ hai.
Dựa theo lúc trước, chỉ sửa tay trái: Co ba ngón từ ngón giữa trở xuống ngay trong lòng bàn tay, co lóng giữa của ngón trỏ để đầu ngón ngang bằng với đầu ngón cái rồi mở ra khoảng hai Phân 2/3cm để trên tam tinh, hướng đầu ngón rũ xuống bên dưới. Mặt làm dạng khoan dung, đừng làm hình giận dữ.
Pháp Thân ấn này. Nếu làm pháp này thì tất cả chúng sanh trong sáu đường đều được lìa các nạn khổ.
Bà Dương Yết Lợi ấn thứ ba mươi Bhayaṃ kari. Tác bố úyĐường nói là Đại Sân Ấn Đệ Tam Diện. Khuôn mặt thứ ba.
Dựa theo lúc trước, chỉ sửa tay trái: Co ngón cái hướng vào trong lòng bàn tay, co ba ngón từ ngón giữa trở xuống nắm ngón cái, duỗi thẳng ngón trỏ hướng đầu ngón về cái miệng, đừng để dính nhau. Miệng, lưỡi và ngón trỏ đều động cùng một lúc. Mặt, mắt phẫn nộ giết hại, làm hình rất giận dữ.
pháp Thân Ấn này cũng gọi là Tỳ Lợi Câu Trí. Bhṛkuṭī. Nếu làm pháp này thì tất cả bệnh quỷ thảy đều trừ khỏi.
Sa Đà Ấn thứ ba mươi mốt Sadha. Phương pháp dùng tương đồng đường nói là Nhuyễn Tâm Ấn Đệ Tứ Diện. Khuôn mặt thứ bốn.
Dựa theo Lập Địa lúc trước, đem tay phải chống ở eo trái.
Tay phải: Co ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út hướng vào trong lòng bàn tay, đem ngón cái đè trên ngón trỏ và ngón vô danh, duỗi thẳng ngón giữa để ở tam tinh, hướng đầu ngón giữa rũ xuống bên dưới. Mặt làm dạng khoan dung, đừng làm hình giận dữ.
pháp Thân Ấn này. Nếu người ngày ngày làm Ấn pháp này, đống hương cúng dường, mong Quán Thế Âm Bồ Tát vui vẻ thì tùy theo sự ước muốn ấy đều được xứng ý.
A Lỗ Đà La Ấn thứ ba mươi hai Mahā rudra. Đại Bạo Ác Đường nói là Đại Nộ Ấn Đệ Ngũ Diện. Khuôn mặt thứ năm.
Dựa theo Lập Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa tay phải: Dựng thẳng ngón giữa, đem ngón trỏ bật ngay trên lưng ngón giữa với đầu ngón ở ngay lóng trên. Kèm co ngón vô danh, ngón út. Hơi co ngón giữa với ngón vô danh mở đầu ngón ra khoảng hai thốn 2/3dm.
Dựng thẳng ngón cái. Đầu ngón cái và đầu ngón giữa mở ra khoảng bốn thốn 4/3dm. Đầu ngón cái để dính trên đảnh đầu, đầu ngón giữa hướng về phía trước đừng để dính vào cái đầu Pháp Thân Ấn này. Nếu lảm Ấn này thì tất cả người ác, quỷ thần ác… thảy đều biến tâm chuyển làm tâm tốt.
Đặc Băng Sa Ni Ấn thứ ba mươi baDhvaṃsani. Phá hoại đường nói là phá bình chướng nạn Ấn, cũng gọi là ha khiển ấn đệ lục diện. Khuôn mặt thứ sáu.
Dựa theo Lập Địa Ấn lúc trước, chỉ sửa tay phải: Co lóng cánh tay ló nghiêng ra bên ngoài, cùng duỗi năm ngón tay cùng nắm nhau, đặt lòng bàn tay nằm ngang. Đem cạnh ngón cái để ngay ngực, đừng chạm vào ngực.
Pháp Thân Ấn này. Nếu trị bệnh quỷ, liền dùng Ấn này, hướng lòng bàn tay về bên phải chặt đốn.
Người ngày ngày đốt hương, làm Ấn này mong Quán Thế Âm Bồ Tát vui vẻ thì các chướng nạn ác thảy đều diệt hết không có dư sót. Hết thảy tất cả quỷ thần ác đều chẳng đến gần được, cũng chẳng thể được dịp thuận tiện gây hại.
Ám Gia Ấn thứ ba mươi bốn?
Jaya Đường nói là Năng Thắng Ấn Đệ Thất Diện. Khuôn mặt thứ bảy dựa theo lập địa lúc trước. Hai tay đều co ngón cái ngay trong lòng bàn tay, đem ba ngón từ ngón giữa trở xuống đều nắm ngón cái, cạnh đầu hai ngón trỏ dính nhau, lóng giữa ở lưng ba ngón tay từ ngón giữa trở xuống cùng dính nhau, lật nghiêng để dính trên lông mày, đầu ngón trỏ hướng rũ xuống bên dưới.
pháp Thân ấn này. Nếu làm Ấn này hàng phục thì tất cả nhóm quỷ thần thảy đều sợ hãi. Nên dùng trị bệnh.
Tỳ xà Gia Ấn thứ ba mươi năm Vijaya Đường nói là Tối Thắng Ấn Đệ Bát Diện. Khuôn mặt thứ tám.
Nên đứng trên mặt đất. Lập địa, hai bàn chân cách nhau khoảng hai xích 2/3m, ngón chân ngang bằng nhau. Hai tay co lóng giữa của ngón giữa ngay trong lòng bàn tay, tiếp theo kèm hai ngón cái đè lên trên. Đề đầu hai ngón trỏ, hai ngón vô danh, hai ngón út cùng dính nhau, đều mở cạnh của ba ngón này. Hợp cổ tay, đem lóng bên dưới của hai ngón cái để dính ngay trên trán, hướng đầu ngón lên trên.
Pháp Thân Ấn này. Nếu khi làm Đại công đức Đạo Tràng Đàn mà dấy lên mây mưa lớn, gió lớn chuyển động… thì nên làm Ấn này, tụng Chú một trăm lẻ tám biến. Đem muối hòa với hạt cải trắng, một lần nhúm một ít thì Chú một lần rồi ném vào trong lửa thiêu đốt ắt mây, gió, mưa ấy ứng thời liền ngưng.
Nếu Đệ Tử vào Đàn bị Quỷ nhập vào thân gây bệnh. Như bên trên thiêu đốt thì bệnh ấy liền khỏi.
Nếu khi làm pháp mà sợ có người ác đi đến tiếp xúc gây phiền não thì như bên trên thiêu đốt ắt người ác liền đi, đều sanh tâm hiền thiện. Sau đó làm pháp, lại muốn buông tha thì Chú vào bô một biến thì một lần ném vào lửa thiêu đốt, một trăm lẻ tám biến tức buông tha được thoát.
A Mục Đa Ấn thứ ba mươi sáu Amukta. Không thể thoát, chẳng thể giải thoát đường nói là vô năng áp ấn đệ cửu diện. Khuôn mặt thứ chín.
Nên đứng trên đất, hướng đầu hai gót chân cùng dính nhau, co rộng hai đầu gối như ngồi mà chẳng ngồi.
Hai tay: Đều co ba ngón từ ngón giữa trở xuống ngay trong lòng bàn tay, lóng giữa của ba ngón cùng hướng trụ dính nhau, dựng hai ngón trỏ nghiêng đầu ngón dính nhau, để đầu hai ngón cái cũng dính nhau dùng nắm cạnh ngón giữa. Trước tiên chạm trên ngực, tiếp theo nâng Ấn ấy, đem lóng trên của ba ngón từ ngón giữa trở xuống để dính trên trán, hướng đầu ngón trỏ lên trên.
Quán Thế Âm Bồ Tát khi ở ngay trước mặt Đức Phật làm Ấn này thời Thiên Ma Cõi Dục thảy đều run sợ, các hàng quỷ thần thảy đều ngã xuống đất. Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Chư Thiên thảy đều rất vui, đồng thời khen ngợi.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba