Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
PHÁP HỘI THỨ BA
PHÁP HỘI MẬT TÍCH KIM CANG LỰC SĨ
PHẦN MỘT
Như vậy, tôi nghe một lúc Phật đến thành Vương Xá, tại núi Linh Thứu cùng Chúng Đại Tỳ Kheo câu hội, bốn muôn hai ngàn Bồ Tát, tám muôn bốn ngàn Đại Thánh thần thông tự tại từ những Phật Độ mười phương vân tập đến đây.
Các vị này đã được pháp nhẫn bất thối chuyển, là bậc Nhất sanh bổ xứ đã được tổng trì biện tài vô ngại, đi khắp vô số Phật Độ mười phương dùng thần thông để tự vui, với chúng sanh một lòng bình đẳng, tiêu oán địch, phục ma ngoại, rõ thấu cội gốc của chúng sanh trong ba cõi, khắp vào tất cả môn Ba la mật, phương tiện khôn khéo, thường ở yên lặng thong thả, Chư Phật ca ngợi tuyên dương công đức.
Từ vô kiếp các Ngài phụng hành Bồ Tát hạnh, tâm bình đẳng như mặt đất, đã trừ những ấm cái, rời các chướng ngại, thân thể mạnh mẽ, ý chí như Kim Cương, oai đức như sư tử được vô sở úy, quang minh hơn cả mặt nhật mặt nguyệt, chứng nhập tất cả tam muội chánh định, rộng truyền chánh pháp hưng thạnh ngôi Tam Bảo, từ bi vô tận bốn ân được nhờ, qua lại ba cõi như mặt nhật mặt nguyệt, đi đến bốn châu như Chuyển Luân Vương.
Các Ngài dùng trí huệ dũng mãnh độ sanh lão bệnh tử, vào trong lục đạo như đuốc sáng soi tối tăm. Tâm các Ngài không trụ trước như hoa sen mọc trong bùn.
Công hạnh của các Ngài không tăng giảm, không thương ghét dường như hư không. Phụng trì Tam Tạng như thọ đại ấn của Quốc Vương.
Các Ngài vào trong tám nạn giáo hóa chúng sanh bị nguy ách, dùng trí huệ chuyển pháp luân bất thối, dìu dắt chúng ngu mê ra khỏi ba độc.
Danh Hiệu của các Ngài là: Nguyệt Thí Bồ Tát, Nguyệt Anh Bồ Tát, Tịch Anh Bồ Tát, Thủ Anh Bồ Tát, Quang Anh Bồ Tát, Quang Thủ Bồ Tát, Thủ Tích Bồ Tát, Thủ Tịch Bồ Tát, Câu Tỏa Bồ Tát, Long Hân Bồ Tát, Long Thí Bồ Tát, Chấp Tượng Bồ Tát, Nhật Thiên Bồ Tát, Duyên Thắng Bồ Tát, Duyên Thủ Bồ Tát.
Thường Cử Thủ Bồ Tát, Thường Hạ Thủ Bồ Tát, Bảo Ấn Thủ Bồ Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát, Phổ Thế Bồ Tát, Tú Vương Bồ Tát, Kim Cang Ý Bồ Tát, Kim Cương Bộ Bồ Tát, Bất Động Hành Tích Bồ Tát, Hóa Tam Thế Bồ Tát, Độ Vô Lượng Tích Bồ Tát, Vô Lượng Ý Bồ Tát, Hải Ý Bồ Tát.
Kiên Ý Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Trì Ý Bồ Tát, Tăng Ý Bồ Tát, Thường Thảm Bồ Tát, Thường Tiếu Bồ Tát, Thiện Căn Bồ Tát, Thiện Chiếu Oai Bồ Tát, Ly Cấu Bồ Tát, Khí Ác Thú Bồ Tát, Khử Chúng Cái Bồ Tát, Cực Tinh Tấn Bồ Tát, Trí Tích Bồ Tát, Thường Quán Quang Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Sơn Đảnh Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Bất Thuấn Bồ Tát, Bất Mộ Bồ Tát, Lạc Bữu Bồ Tát, Thượng Bữu Bồ Tát, Tâm Thiện Bồ Tát, Tư Thiện Bồ Tát, Tư Nghĩa Bồ Tát, Châu Kết Bồ Tát, Tổng Hào Vương Bồ Tát, Tịnh Vương Bồ Tát.
Nghiêm Độ Bồ Tát, Bữu Sự Bồ Tát, Ân Thí Bồ Tát, Đế Thiên Bồ Tát, Thủy Thiên Bồ Tát, Đế Võng Bồ Tát, Minh Võng Bồ Tát, Dụ Thiên Bồ Tát, Tích Khoái Tý Bồ Tát, Thiện Bạch Tượng Bồ Tát, Hương Thủ Bồ Tát, Chúng Hương Thủ Bồ Tát, Sư Tử Anh Bồ Tát, Phổ Lợi Ý Bồ Tát.
Diệu Ngự Bồ Tát, Đại Ngự Bồ Tát, Tịch Ý Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Phổ Thủ Bồ Tát, Đồng Chân Bồ Tát... như vậy có tám muôn bốn ngàn Đại Bồ Tát câu hội.
Lúc bấy giờ Đại Thiên Thế Giới cao lớn nguy nga, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên, Long Thần, Bát Bộ cùng quyến thuộc đều đến hội họp. A Nậu Đạt Trì Long Vương các Long Vương và quyến thuộc đều hội đến.
Nhàn Cư A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng các A Tu La Vương và quyến thuộc đồng hội đến. Ma Kiệt Đà Quốc Vương Tần Bà Ta La và cùng nhân quyến thuộc đều hội đến.
Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Tín Sĩ, Tín Nữ đồng hội đến. Chư Thiên Thần Cõi Dục, Chư Thiên Cõi Sắc nhẫn đến Tịnh Cư Thiên đều hội đến.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì vô lượng vô số đại chúng mà thuyết pháp, tuyên nói công hạnh của Chư Bồ Tát Đại Sĩ. Pháp của Phật nói đây tên là Tịnh Tế.
Những gì gọi là Bồ Tát hạnh?
Dùng hạnh bố thí giáo hóa chúng sanh cứu tế nguy hiểm ách nạn. Tu hạnh giới cấm viên mãn mười điều lành.
Thật hành nhẫn nhục đầy đủ tướng tốt vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân. Cần hành tinh tấn đầy đủ tất cả công đức. Thật hành thiền định chí ý an hòa tịch tịnh bất tư nghì.
Thật hành trí huệ dứt những trần lao thành trí huệ Thánh, giáo hóa những người chưa thông đạt.
Thật hành học rộng được vô ngại biện tài diễn thuyết trôi chảy, người nghe liền tin thọ.
Thật hành công đức khuyên chúng sanh làm vô lượng phước.
Thật hành Thánh minh được vô lượng biện tài.
Thật hành tịch tịnh phát khởi chúng sanh chẳng thể nghĩ bàn.
Thật hành chánh quán trừ bỏ tà hạnh những việc vô ích.
Thật hành từ tâm thường nhân hòa chẳng tổn hại.
Thật hành bi tâm muốn cứu giúp chúng sanh trước sau chẳng nhàm.
Thật hành hỷ tâm dùng pháp lạc để tự vui, cũng giáo hóa chúng sanh khiến họ mộ đạo.
Thật hành hộ tâm khai thị tội phước đem chánh pháp lợi mình lợi người.
Thật hành xuất gia rời bỏ tâm ân ái mến luyến cùng những thối quen thế tục.
Thật hành nhàn cư thành lập yếu nghĩa chẳng thối thất nhất tâm.
Thật hành chí nguyện được tổng trì chẳng quên chánh pháp đem giáo hóa chúng sanh.
Thật hành tư niệm hiểu rõ thông đạt tất cả.
Thật hành du bộ hiểu rõ nghĩa lý có lợi ích không tổn hại.
Thật hành chánh ý quán sát sự đau ngứa nơi thân và tâm ý các pháp.
Thật hành ý đoạn dứt hết tất cả tội ác, tu tất cả diệu hạnh.
Thật hành thần túc thân tâm nhẹ nhàng, đến nơi nguy ách cứu nạn chúng sanh.
Thật hành chư căn nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý đều tịch tịnh chẳng tán loạn.
Thật hành luật hạnh tiêu trừ trần lao những lỗi quấy, thường kềm chế được lấy mình và cũng giáo hóa chúng sanh.
Thật hành giác ý để đạt chánh kỷ.
Thật hành đạo nghiệp vượt khỏi những đường tà của chín mươi sáu phái ngoại đạo.
Thật hành chân chánh thành tựu nhân nghĩa không mừng không giận.
Thật hành giải biện thấy rõ tâm của chúng sanh mà vì khai thị.
Thật hành tự qui, thân mình tự đạt chẳng mong nhờ người.
Thật hành thiện hữu dùng đức huệ để tế độ.
Thật hành thuần tánh luôn luôn hòa thuận không khi dối.
Thật hành đúng thời, vượt khỏi tất cả nạn.
Thật hành Thánh Hiền, hành động đặc biệt khác hơn mọi người.
Thật hành ngồi yên thường phụng hành những pháp đã được nghe.
Thật hành tứ ân nhóm họp đại chúng để diễn thuyết Kinh Pháp.
Thật hành chánh pháp thuận theo giáo pháp của Tam Bảo làm cho chẳng đoạn tuyệt.
Giáo hóa chúng sanh, nghiêm tịnh Phật Độ, đầy đủ tất cả bi trí.
Đức Thế Tôn rộng thuyết tất cả nghiệp hạnh thanh tịnh của Bồ Tát như vậy.
Lúc bấy giờ Kim Cang Lực Sĩ hiệu là Mật Tích, cầm kim cương xử đứng hầu bên hữu Đức Thế Tôn, đến trước bạch Phật rằng: Đức Như Lai chí chân nói pháp yếu về những công nghiệp thanh tịnh của Bồ Tát.
Bạch Thế Tôn! Những hạnh nghiệp công đức ấy đều là chỗ vui thích của Chư Bồ Tát, dùng đó để nhiếp độ chúng sanh.
Nếu Chư Bồ Tát hiểu rõ công đức tu hành huệ hạnh, là thật hành chân thật chí thành đệ nhất. Vì những công đức huệ hạnh là phương tiện thiện xảo Ba la mật đầy đủ phước huệ, huệ nghiệp này là trí Ba la mật của Bồ Tát, trong đầy đủ tất cả công hạnh.
Công đức và trí huệ khắp đầy đủ tất cả đạo hạnh của Chư Bồ Tát mà ân đức khắp cứu độ chúng sanh, vượt khỏi cảnh ma đến bậc bất thối chuyển sẽ thành bậc Vô Thượng Bồ Đề.
Lúc đó Tịch Ý Bồ Tát nói với Mật Tích Kim Cang: Mật Tích vừa nói hai sự nghiệp gần trí huệ của Như Lai. Ông có thể thích an trụ tuyên dương nghiệp bí mật của Như Lai. Đây thời chẳng phải bậc Thanh Văn, Duyên Giác biết được huống là những hàng phàm phu. Lúc đó Mật Tích Kim Cang yên lặng chẳng đáp.
Tịch Ý Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Mật Tích Lực Sĩ phải chăng có thể chiếu cố đến chúng hội này mà diễn bày pháp bí mật của Như Lai. Toàn thể chúng hội đều khát ngưỡng muốn được nghe đó.
Nếu được nghe diễn thuyết pháp này thì trong tâm của chúng hội tất sẽ rất vui mừng phụng hành Bồ Tát hạnh, sẽ thành tựu đầy đủ những sự mật yếu, tâm tánh sẽ điều hòa vào nơi vô thượng đại từ.
Phật bảo Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ: Ông có thể lãnh trọng nhiệm vì đại hội mà diễn thuyết mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Chư Phật đồng khuyến tán. Đại hội sẽ thích nghe.
Kim Cang Lực Sĩ bạch: Thế Tôn! Tôi có thể kham nhiệm chút ít vì đại hội mà tuyên thuyết mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Mong Như Lai giúp oai thần, nhờ Như Lai trợ huệ quang, tôi mới dám vâng thánh chỉ của Phật để tuyên bày. Như lúc Trời tối phải nhờ ánh sáng của ngọn đèn mới có thể thấy rõ hình sắc và đến đi qua lại.
Phật nói: Lành thay! Đã phải lúc cho ông tuyên thuyết.
Mật Tích Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát: Xin Ngài lắng nghe, và cũng xin đại hội nghe mật hạnh của Bồ Tát cùng bí yếu của Như Lai chớ kinh chớ sợ.
Tịch Ý Bồ Tát bố cáo giữa đại hội: Đức Như Lai tuyên bố bốn pháp bất tư nghì, do đậy được thành đạo Chánh Giác Vô Thượng.
Những gì là bốn?
Tạo lập công nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, chí nguyện chẳng thể nghĩ bàn, thiền định chẳng thể nghĩ bàn, chỗ làm của Chư Phật không có ngằn mé.
Các Ngài nên biết trên đây là bốn điều chẳng thể nghĩ bàn. Các Ngài nếu nghe những điều chẳng thể nghĩ bàn của Chư Bồ Tát và của Chư Phật, thời chẳng nên có lòng sợ sệt, phải vui mừng hớn hở, hết lòng kính tin mới có thể đạt được đại đạo.
Tịch Ý Bồ Tát liền nhập chánh định làm cho tất cả đại hội đều có quan niệm kính tin giáo pháp của Như Lai, đều vui mừng hớn hở. Trời rưới các thứ hoa đúng theo ý muốn của đại chúng để rải cúng dường Phật, cũng rải khắp đại hội.
Mật Tích Lực Sĩ nói với Tịch Ý Bồ Tát: Xin lắng nghe khéo nghĩ nhớ. Nay tôi sẽ tuyên bố mật hạnh của Bồ Tát và bí yếu của Như Lai. Lời nói của Phật và Bồ Tát rất thành thật, không quan niệm phân biệt để truyền đạo riêng khác, luôn thuận theo năm hạnh của Bồ Tát.
Bồ Tát không dua vạy, chẳng khi dối, chẳng cống cao, lúc thị hiện tương ưng thời biến hóa tự tại, do tâm tự tại chẳng phân biệt hạnh nghiệp tà nịnh phi pháp, cẩn thận việc làm nơi thân dùng oai nghi lễ tiết giáo hóa chúng sanh, miệng không nói những lời hư vọng.
Oai nghi của Bồ Tát không thể hạn lượng. Theo hạnh nghiệp của chúng sanh dùng tất cả oai nghi lễ tiết để có thể khai hóa.
Chỗ làm cũng như học vấn, tư duy, thiền quán, âm thinh, ngôn từ đều làm cho được rành rẽ. Chỗ làm của nam của nữ hành động đi đứng oai nghi lễ tiết đều đúng theo lớn nhỏ. Đến trẻ nít còn bú mà đáng được giáo hóa, Bồ Tát cũng đều cẩn thận oai nghi.
Với những hàng lão thành, trung niên, thiếu niên, đáng được giáo hóa đúng theo oai nghi lễ tiết, tôn ti, sang hèn, trí ngu, làm cho kẻ bít lấp được khai thông, người đần độn được tỏ thấu, việc làm nhiều ít đều đúng oai nghi lễ tiết. Với người đáng được độ thời dạy dỗ khai hóa.
Với các loài địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, Thiên, Long, Bát Bộ, nhân và phi nhân, thời dìu dắt những kẻ đáng giáo hóa.
Với hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Tín Nam, Tín Nữ, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Thần, ai đáng nên giáo hóa thời dạy bảo đó.
Bồ Tát đều biết rõ chúng sanh sâu, cạn, dày, mỏng, khó độ, dễ độ. Đúng theo bệnh cho thuốc mà vì họ thuyết pháp, khiến người tham dâm chẳng tham của cải, kiến lập oai nghi theo lễ tiết của họ.
Bồ Tát ở nơi đó, thường tịch nhiên vô vi, đem thân tu hành chẳng rời tịch mặc, hiển bày oai nghi nơi thân.
Nếu có người tham lam ganh ghét, đều vì tùy thời cứu tế chẳng tiếc thân mạng. Những chúng sanh khổ não nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cứu tế họ khỏi nạn khổ, đặt họ ở nơi an ổn.
Nếu có chúng sanh nhiều bỏn sẻn tham lam, Bồ Tát theo sở thích của họ mà hiện những thứ trân bảo của cải làm cho họ trụ nơi nghiệp lành. Nhẫn đến theo sở thích của họ mà tự bố thí cho những đầu, mắt, da, thịt, gân, xương, tủy, não, vợ, con, ngựa, xe, tôi tớ, áo cơm.
Nếu họ đòi món ngon vật lạ, áo mền tốt đẹp, Bồ Tát cũng đều làm cho họ vừa ý để họ phát tâm lành. Bồ Tát vì chúng sanh mà hiện vô số thân ở vô lượng Thế Giới mười phương, nhân duyên phương tiện của Bồ Tát cũng không thể cùng tận. Theo cơ cảm hiện vô lượng thân khai hóa chúng sanh đưa họ vào chánh pháp.
Nếu có chúng sanh nhiều tham dục mê tình sắc, Bồ Tát hiện thân phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần, làm cho người đó thích mến xem dường Bảo Châu, rồi hiện hôi, dơ, xấu xa đáng nhàm, kế hiện chết mất, dùng đó để diễn những pháp vô thường, khổ không, như huyễn, như hóa, không chút gì chân thật, làm cho người nghe tâm ý tỏ thông bèn phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát kia dùng một lọng báu che khắp Cõi Đại Thiên, lại có thể đem nhét vào trong hột cải.
Nếu lúc hỏa tai đốt khắp Thế Giới, Bồ Tát có thể để tất cả trên bàn tay mình, thân Bồ Tát cũng chẳng lớn thêm.
Bồ Tát có thể đồng thời cúng dường tất cả Chư Phật ở mười phương, trước mỗi Đức Phật đồng thời đều có thân Bồ Tát.
Bồ Tát có thể biến những hoa đẹp nhiều như núi Tu Di bọc trong vạt áo hóa thành lọng hoa dâng cúng Như Lai.
Bồ Tát có thể biến một lư hương lớn bằng ngàn Phật Độ, biến một ngọn đèn bằng núi Tu Di ánh sáng chiếu hằng hà sa Quốc Độ để cúng dường Phật.
Bồ Tát dùng vải lụa vấn thân mình, rưới dầu làm ngọn đèn, tự đốt thân mình, ánh sáng chiếu khắp Cõi Đại Thiên, làm cho chúng sanh người thấy kẻ nghe đều tưởng niệm đến cảnh giới Bồ Tát mà phát đạo tâm Vô Thượng.
Bồ Tát mặc giáp hoằng thệ hiện thế lực lớn tay cầm Kim Cang xử đứng hầu bên Phật, mọi người sợ hãi phải quy y đảnh lễ.
Bồ Tát thị hiện lực sĩ thân chết thây sình vất bỏ trong gò mả, chim muông đến ăn thịt, những cầm thú này sau khi chết đều được sanh lên Cõi Trời.
Vì bổn nguyện của Bồ Tát tự thệ rằng: Giả sử có loài người, hoặc muông thú cầm điểu, lúc ăn da thị thây chết của tôi đều thêm lớn căn lành, họ sẽ được sanh lên Cõi Trời sau khi báo thân họ đã mãn.
Thưa Ngài Tịch Ý Bồ Tát! Nên phải quan sát công hạnh tùy nghi hóa độ của Bồ Tát như vậy. Thuở quá khứ lâu xa, cõi Diêm Phù Đề này rộng lớn, có tám muôn bốn ngàn nước, nhân dân đông nhiều không tính đếm được. Thời kỳ đó loài người ăn mặc tự nhiên giàu có đầy đủ, châu báu vô số, nhà cửa tốt đẹp, hoa thơm trái ngọt sum suê khắp nơi.
Lức đó có nhiều chúng sanh mang lấy bệnh khổ, đau nhức ngứa ngáy, trăm ngàn lương y không trị được. Lúc đó Bồ Tát hiện làm lương y trị lành bệnh cho mọi người, dùng từ tâm theo săn sóc người bệnh như tôi tớ.
Lại thuở quá khứ lâu xa, có Thiên Đế Thích hiệu Thiện Tự Tại, ở trên Trời nhìn xuống thấy nhân loại bị nhiều bệnh khổ, Thiên Nhĩ nghe tiếng rên rỉ kêu khóc của mọi người, động lòng từ bi liền hiện làm thân thú tên nhân lương ở gần nước Cụ Lưu trong Diêm Phù Đề, rồi hiện ra tiếng rao truyền giữa hư không để phổ cáo tất cả người trong Diêm Phù Đề:
Cách nước Cụ Lưu này chẳng xa.
Có một thú lớn tên nhân lương
Ai ăn được thịt của thú này
Thời thoát khỏi được tất cả khổ.
Các người chớ nghi ngờ sợ sệt
An lòng đến lấy thịt mà ăn
Thú không hung dữ, thịt sạch ngon
Chính là thuốc hay trị các bệnh.
Lúc đó tất cả người bệnh hoạn trong Diêm Phù Đề đồng dắt nhau đến nước Cụ Lưu thẻo lấy thịt thú nhân lương mang về ăn, tất cả đều được lành bệnh.
Thân thể của thú nhân lương hườn lại như cũ. Tiếng đồn truyền ra, lần lượt những người bệnh ở các nước xa đua nhau đến lấy thịt thú nhân lương để ăn.
Thẻo xong, thịt hườn lại như cũ, thân thú nhân lương không hề tổn giảm. Chỉ trong bảy ngày mà thiên hạ đều khỏi nạn bệnh tật.
Dầu mọi người được hết thân bệnh, nhưng những tâm bệnh như tham, sân, si v.v... vẫn chưa tiêu. Sau khi được khỏe mạnh an vui, mọi người nghĩ rằng chúng ta biết lấy gì để báo đáp ơn nghĩa của thú nhân lương.
Thiên hạ rủ nhau đến nước Cụ Lưu, ở trước thú nhân lương đồng cung kính nói kệ rằng:
Hỡi này thú nhân lương
Nhờ thịt ngươi điều trị
Thiên hạ khỏi bệnh khổ
Lấy gì báo ơn ngươi?
Liền lúc đó thân thú nhân lương ẩn mất, hiện trở lại thân Thiên Đế Thích bảo đại chúng rằng:
Thân tôi ngày hôm nay
Chẳng cần nhà cửa ở
Chẳng dùng đồ uống ăn
Vàng bạc cùng trân bảo
Chẳng dùng xe voi đẹp
Chẳng màng xe ngựa hay.
Hàng gái trai già trẻ
Nên đồng tâm hòa thuận
Nên theo chánh bỏ tà
Cùng làm mười nghiệp lành
Từ tâm đối với nhau
Mến thương và giúp đỡ
Xem nhau như ruột thịt
Đối nhau như mẹ con
Chớ làm tổn hại nhau
Là báo ơn nhân lương.
Lúc đó đại chúng nghe lời dạy của Thiên Đế, đều cảm động phụng hành mười nghiệp lành. Sau khi chết họ được sanh lên Cõi Trời Đao Lợi, lại được Thiên Đế khai thị thuyết pháp, tất cả đều phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.
Thưa Ngài Tịch Ý Bồ Tát Thiên Đế hóa thân làm thú nhân lương thuở quá khứ đó, chính là tiền thân của Đức Như Lai hiện nay.
Bồ Tát tu mật hạnh, chẳng tiếc thân mạng đem bố thí cứu khổ chúng sanh, sau đó khai hóa khiến họ hướng đến đạo Vô Thượng.
Phật bảo Tịch Ý Bồ Tát: Này Tịch Ý! Chư Bồ Tát thật hành các mật hạnh bền vững chắc chắn không ai phá hoại được dường như kim cương. Giáo Pháp của Bồ Tát này tuyên thuyết, lửa chẳng cháy được, dao chẳng chặt được. Thân Bồ Tát mạnh mẽ không ai hủy hại được.
Này Tịch Ý! Thân của Bồ Tát thuận theo pháp luật dìu dắt chúng sanh. Tâm của Bồ Tát chẳng vắng bặt cũng chẳng vọng tưởng. Thân của tất cả chúng sanh bổn tánh đều không, thân của Bồ Tát cũng vậy.
Rõ biết thân mình bổn tánh là không, bổn tánh của các pháp cũng là không. Các pháp bổn tánh không, biết thân mình qui về nơi bổn không, tất cả pháp cũng bổn không. Các pháp đã bổn không, thân mình tự nhiên cũng qui về nơi bổn không.
Thân mình đã bổn không thời các pháp quá khứ, vị lai cùng hiện tại cũng bổn không. Đã rõ các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại là bổn không, thân mình cũng bổn không, chẳng lầm, chẳng loạn, chẳng trái nhau.
Vì tất cả đều bổn không nên những hành pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới, các đại chủng đều chẳng trái nhau, nhẫn đến sanh tử cùng vô vi cũng tự nhiên bổn không, vì sanh tử vốn không chỗ sanh, vì vô sanh nên là bổn không.
Này Tịch Ý! Đã là bổn không thời là bình đẳng không khác, vốn không tránh tụng, vì vốn không trái nhau. Do đây nên gọi rằng Như Lai bổn không. Như Lai không hình tượng toàn qui về bổn không, chính đây gọi là hình tượng của Như Lai, vì khắp thị hiện tất cả sắc tượng, hình tượng Như Lai tất cả bổn không.
Chính đây gọi là hình tượng Như Lai. Do đây nên Bồ Tát thị hiện tất cả sắc tượng, nhẫn đến hiện tướng Như Lai, nhưng chưa từng tạo hiện hình tượng. Vì không hình tượng, không chống trái nên mới khắp hiện tất cả hình tượng.
Tự quan sát thân mình bổn vô, tất cả thân cũng bổn vô. Tự quán sát pháp thân, tất cả các thân đều không có thân. Quán thân Như Lai hiểu rõ tất cả thân đều từ nhân duyên sanh. Vì rõ pháp thân bổn lai không thân, nhân duyên cùng pháp thân bèn thành pháp thân.
Không ấm, nhập, giới, đại chủng thời gọi là pháp thân. Thật hành bình đẳng tiêu trừ cảnh duyên của chúng sanh duyên lấy.
Này Tịch Ý! Như thần y Kỳ Bà hiệp các thứ cỏ thuốc bện thành hình đồng tử trẻ đẹp, cũng đi đứng nằm ngồi. Hoặc có Vua, Quan, hào tộc, Trưởng Giả đến nhà Kỳ Bà để xem đồng tử do cỏ thuốc bện thành, rồi cùng nó ca hát đùa giỡn, bệnh tật của mọi người đều tiêu trừ được an lành.
Này Tịch Ý! Ông xem thần y Kỳ Bà trị bệnh cho thế gian, những y Sư khác không thể làm được. Chư Bồ Tát phụng hành pháp thân, nếu những chúng sanh nhiều tham, sân, si, không luận già trẻ nam nữ, cùng Bồ Tát gần gũi mến vui, thời phiền não trần lao thảy đều tiêu dứt. Sự lợi ích này đều do bổn nguyện đầy đủ của Bồ Tát.
Này Tịch Ý! Chư Bồ Tát khéo tu pháp thân, thời Chư Bồ Tát này là pháp thân, không còn phải dùng ăn uống, nhưng vì thương xót chúng sanh mà hiện ăn hiện uống, vì pháp thân của Bồ Tát chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh, chẳng diệt, vô chung vô thỉ, nhưng thuận theo tập tục mà hiện có sanh tử. Dầu hiện sanh tử nhưng hiểu rõ tất cả pháp đều là vô sanh.
Thị hiện có sanh để tuyên thị tất cả pháp là vô vi, là không hội hiệp, dầu có sanh nhưng đều là vô sanh. Bồ Tát hoặc thị hiện thân căn tàn tật, nhưng pháp thân chẳng hư tổn, dùng pháp tự vui, hiểu rõ Phật Thân.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Nhu Thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Chư Pháp Dũng Vương - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật - Phần Chín
Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Hai Mươi Chín
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Hai Mươi - Phẩm đại Sư được Thọ Ký