Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Hai - Pháp Hội Bồ Tát Tạng - Phẩm Thứ Bảy - Phẩm Thi La Ba La Mật - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ MƯỜI HAI

PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG  

PHẨM THỨ BẢY

THI LA BA LA MẬT  

PHẦN HAI  

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Từ lâu thuở trước kia

Chưa biết lên đường Thánh

Đọa loài đà bò lừa

Chịu nhiều điều khổ cực

Nay ta được thân người

Phải tu nghiệp hiền thiện

Để được chứng bồ đề

Đó là tướng trí huệ

Ta phải nên cung kính

Kiến lập các Phật Pháp

Thờ cúng thuyết Pháp Sư

Để được đại bồ đề

Quá khứ nan tư kiếp

Vòng quanh trong sanh tử

Lại qua mãi vô ích

Không phước điền nuôi mạng

Rời xa bạn thầy lành

Thường gần các bạn xấu

Nghe lời họ khuyến dụ

Luôn đọa các ác đạo

Đối với loài bàng sanh

Cột nhốt đánh mắng chúng

Do các nghiệp ác ấy

Chịu lấy quả khổ cực

Làm lạc đà bò lừa

Mang nặng thêm bị đánh

Vì chẳng gần bạn lành

Nay ta được thân người

Và bạn thiện tri thức

Đã được sanh thiện đạo

Lại được khỏi các nạn

Như rùa đui đáy biển

Mừng gặp bộng cây trôi

Khéo giữ gìn thân khẩu

Tâm tinh tấn cường thạnh

Thờ thiện hữu không dua

Nuôi lớn thân huệ mạng

Nếu có bậc Tôn Sư

Khai phát huệ mạng ta

Hay giảng nói Diệu Pháp

Thẳng đến đường bồ đề

Cúng dường Chư Như Lai

Những hương hoa hương bột

Y phục và tràng hoa

Ta phải thường thờ kính

Hiện tại Thập Phương Phật

Thường khai thị thắng nghĩa

Đấng kim sắc vô biên

Phải kính thờ úng dường

Đi khắp các Quốc Độ

Cúng dường Điều Ngự Sư

Vì thanh tịnh giác đạo

Sẽ thăng tòa đại giác.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm thứ tư ấy rồi, vì muốn cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với Pháp Sư càng thêm vâng thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm như vậy: Thuở trước vì ta rời xa thiện hữu gần gũi ác hữu nên lười biếng phóng túng vô trí ngu si siêng làm những điều hạ liệt. Vọng nghĩ rằng đem thịt của tất cả hữu tình nấu chung một nồi, xắt chung làm gỏi, việc làm ấy chẳng phải tội, chẳng bị ác báo, chẳng sanh ác đạo.

Vì ác kiến nên nghĩ rằng bố thí cho tất cả hữu tình được sung túc, việc làm ấy chẳng gọi là phước, chẳng được phước báu, chẳng sanh nơi phước. Lại vì ác kiến nên cho rằng dầu giết hại tất cả hữu tình cũng chẳng bị ác báo chẳng sanh ác đạo.

Bồ Tát nghĩ rằng thuở trước ta làm những việc ấy mà chẳng biết được là tội chẳng tội, là phước chẳng phước, quen gần bạn ác ngu si vô trí gây nhiều nghiệp ác, do đó bị đọa vào địa ngục cảm lấy thân tệ hạ xấu dơ, hoặc nuốt hòn sắt đỏ, hoặc bị cưa xẻ, chịu khổ không hở đến nhiều trăm ngàn năm, chẳng hề được nghe sự vui huống là được hưởng. Bồ Tát lại nghĩ rằng thuở trước dầu ta trải qua nhiều đau khổ như vậy mà vẫn chẳng gặp được phước điền.

Nay ta được gặp phước điền lại cảm được thân người, ta phải nương phước điền nuôi lớn huệ mạng, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phụng thờ Sư Trưởng chẳng kể thân mạng.

Vì cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát Tạng nên đối với thuyết Pháp Sư vâng thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước. Đây gọi là Đại Bồ Tát phát tâm thứ năm.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Xưa ta gần bạn ác

Bị tâm ác mê hoặc

Nương theo các ác kiến

Gây tạo các nghiệp ác

Khắp biển cả đất liền

Bố thí no đủ cả

Cho rằng chẳng được phước

Khắp biển cả đất liền

Có bao nhiêu chúng sanh

Ta đều giết hại cả

Cho rằng chẳng có tội

Luôn gần kề tập quen

Các ác kiến như vậy

Đọa địa ngục tột khổ

Ép dẹp cả đầu mình

Xưa ở các ác đạo

Luống thọ trăm ngàn thân

Chưa hề thấy Chư Phật

Đấng Đạo Sư thế gian

Thiện tri thức trong đời

Tiếng ấy còn khó nghe

Ta may được thân người

Phải tu nghiệp hiền thiện

Được thân người rất khó

Sống lâu cũng là khó

Nghe chánh pháp càng khó

Phật xuất thế khó hơn

Ta đã được thân người

Cảm mạng sống mỏng manh

Gặp được Phật ra đời

Dự chánh giáo Như Lai

Ta chẳng còn nên làm

Nghiệp ác thân khẩu ý

Chớ để đời sau này

Thọ quả báo khổ cực

Ta phải dùng tịnh tâm

Tu tập nghiệp thanh tịnh

Do thân ngữ và ý

Làm việc đời khó làm

Ta trọn chẳng sai trái

Chánh Giáo của Tôn Sư

Lại phải siêng cúng dường

Vì cầu bồ đề Phật

Do ta chẳng du dối

Không có lòng ảo ngụy

Nên mở đường thẳng dài

Cầu Phật đạo vô thượng

Đại Bồ Tát vô úy

Đã phát tâm như vậy

Cúng dường đồ đựng nước

Phương tiện huệ đầy đủ.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm thứ năm rồi, vì muốn cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết Pháp Sư càng thêm kính thờ nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm như vậy: Từ lâu tôi rời xa thiện hữu gần kề ác hữu nên lười biếng phóng túng siêng làm việc hạ liệt, ngu si vô trí. Do đó mà vọng bỏ những sự tiếp rước cúi mình lễ lạy chắp tay thăm hỏi các nghiệp báo lành.

Vì lòng khinh mạn mê hoặc nên gây tạo nghiệp ác. Do nghiệp báo ác nên ở nơi các phước điền chưa từng nuôi lớn huệ mạng thanh tịnh.

Lại nghĩ rằng ta nhơ thuở xưa cảm thọ thân côi cút nghèo cùng hạ tiện làm tôi tớ cho người khác. Ta lại thọ lấy thân người đam mê sắc dục, đam mê tất cả tướng sắc dục, ở trong số ác nghiệp bất bình đẳng, sanh khởi nhiều thứ tà kiến, phá hư Thi La, phá hư chánh kiến.

An trụ trong ba thứ căn bất thiện, an trụ trong bốn thứ chẳng nên hành động, bị ngũ cái trum đậy, chẳng có lòng cung kính đối với sáu ngôi tôn trọng, chưa chuyển theo bảy giác chi, quyết định hành động trong tám tánh tà, bị chín thứ não hại làm tổn não, thường noi đi trên mười đường ác nghiệp.

Luôn hướng mặt về phía nghiệp báo địa ngục mà day lưng về phía nghiệp báo trời, rời xa tất cả thiện tri thức, bị lệ thuộc nơi các ác hữu, tự tại đi theo ma oán xa các pháp lành mà làm tất cả pháp bất thiện, lại còn bị đánh đập mắng la ép buộc phục dịch cung cấp cho kẻ khác.

Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng thuở xưa vì ta chưa gặp được phước điền nên nhận lãnh điều ác. Nay ta được gặp phước điền lại cảm thọ thân người lành tốt này, ta phải nương theo các phước điền, đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, nuôi lớn huệ mạng, phụng thờ Sư Trưởng chẳng kể thân mạng.

Vì cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết Pháp Sư thờ kính cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước. Đây gọi là Đại Bồ Tát phát tâm thứ sáu.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Gần kề ác hữu thêm kiêu mạng

Trải qua vô lượng kiếp quá khứ

Trong người thọ sanh thân nô tỳ

Lăn trôi mãi trong dòng sanh tử

Nay ta đã được thân khó được

Báo người lành tốt mạnh đệ nhất

Lại được sanh trong Quốc Độ tốt

Gặp Phật ra đời không nạn khổ

Bạn lành thầy lành rất thù thắng

Hay giảng công hạnh Bồ Tát làm

Nhiều câu chi kiếp nay mới gặp

Chư Đại Bồ Tát công đức lớn

Thân người vô thường giả mỏng manh

Ví như bóng nước cùng đống bọt

Lại như ảo huyễn va vai kịch

Như ngủ chiêm bao mà nói mớ

Mạng như mây chớp chẳng lâu dài

Thế gian niệm niệm sắp tiêu diệt

Mạng này gần như khoảng sát na

Nên đem chẳng bền đổi thân chắc

Ta nhớ nhiều kiếp thuở quá khứ

Sa giữa núi mạn chỗ hiểm sâu

Quá khứ đã từng bị khi dối

Trải qua trăm ngàn kiếp số lâu

Nay ta bỏ hết thân tham ái

Lại không có lòng tiếc mạng sống

Phải mau rời bỏ lòng kiêu mạn

Phải siêng kính thờ các Sư Trưởng

Với các hạng người đời đồng kính

Đó là cha mẹ anh chị thảy

Phải mau rời bỏ lòng kiêu căng

Cung kính vâng dạ tuân lời dạy

Với Chư Bồ Tát gần bồ đề

Cùng ta đồng tu Bồ Tát hạnh

Phải có chặc lòng kính mến nhiều

Thường vui cúng dường chuyên thờ phụng

Thuở xưa kiêu mạn lớn cao căng

Chẳng nghe biết Pháp Phật trừ mạn

Phải dùng trí kim cương vô thượng

Khiến núi kiêu mạn ngã nát hẳn

Diệu hạnh bồ đề viên mãn rồi

Ngồi yên trên tòa thắng bồ đề

Dẹp phục quân ma bầy tranh đấu

Sễ độ quần sanh trong biển khổ

Bao nhiêu kẻ khổ ở mười phương

Nằm trong phẩn dơ bị chê chán

Phát khởi tâm từ thương xót họ

Làm chỗ cứu vớt cho họ về

An trụ đại thí Ba la mật

Lại hay phòng hộ Phật giới đức

Tu hành đầy đủ hạnh nhẫn nhục

Phát khởi chánh cần khiến hiện tiền

Được đủ tịnh lự Ba la mật

Bấy giờ điều phục tâm ở yên

Trụ nơi đại huệ thiện phương tiện

Làm phước điền cho tất cả chúng

Thêm lớn phước lực thạnh như vậy

Bất khả tư nghị thiện trí thức

Gặp được bậc trí tự tại nhất

Cúng dường nhẫn đến đồ đựng nước.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm thứ sáu như vậy rồi, vì cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết Pháp Sư càng thêm kính thờ nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm như vậy: Từ lâu ta vì rời xa thiện hữu mà gần kề ác hữu nên lười biếng phóng túng siêng làm việc hạ tiện ngu si vô trí. Do ác kiến ấy mà vọng cho rằng không nghiệp ác không báo ác, không nghiệp lành không báo lành, không nghiệp ác lành không báo ác lành, không nghiệp chẳng ác lành không báo chẳng ác lành.

Lại chẳng thỉnh hỏi nơi các nhà trí thức như Sa Môn và Bà La Môn gì là lành gì là chẳng lành, gì là tội gì là chẳng tội, gì nên tu gì chẳng nên tu, gì nên làm gì chẳng nên làm, tu công hạnh gì mà phải cảm lấy vô lợi vô nghĩa và các khổ não nhiều thời gian, tu công hạnh gì mà cảm được hữu lợi hữu nghĩa và nhiều an vui lâu dài?

Đại Bồ Tát nghĩ rằng thuở xưa vì lòng mạn và thắng mê hoặc nên ta gây tạo nhiều nghiệp ác bất thiện. Do đó cảm thọ thân người tật nguyền, nơi các phước điền chưa nuôi huệ mạng, dầu ở trong loài người mà chẳng khác chậu úp ngu độn khờ khạo mù đui lãng điếc, với nghĩa lý thiện và ác không có năng lực thông hiểu tuyên nói.

Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng thuở xưa ta chưa gặp phước điền thù thắng này nên gây tội ác, nay ta được gặp phước điền thù thắng này lại cảm được thân người lành, ta phải nương phước điền này nuôi lớn huệ mạng. Ta lại phải chẳng kể thân mạng để cầu có năng lực thông hiểu được những nghĩa về thuyết thiện thuyết ác.

Ta phải thỉnh hỏi nơi thuyết Pháp Sư gì là thiện gì là bất thiện, gì là có tội gì là không tội, gì nên tu gì chẳng nên tu, gì nên làm gì chẳng nên làm, thật hành công hạnh gì làm cho pháp Thanh Văn và Độc Giác được phát hiện, thật hành công hạnh gì làm cho pháp Phật và pháp Bồ Tát được thể hiện?

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát vì muốn siêng cầu Bồ Tát tạng nên y theo Thi La Ba la mật đa mà tu Bồ Tát hạnh đem thân chẳng bền đổi lấy thân bền chắc, đối với thuyết Pháp Sư kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.

Đây gọi là Đại Bồ Tát phát tâm thứ bảy.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

Từ xưa quá khứ trăm ngàn kiếp

Rời xa thiện hữu người lợi ích

Chưa từng thưa hỏi tiện bất thiện

Có tội không tội các nghiệp quả

Do lỗi kiêu mạn quá tăng thượng

Đọa trong địa ngục và loài quỷ

Quen gần ác kiến làm bạn bè

Trải nhiều trăm kiếp sa ác đạo

Hoặc sanh loài người nhiều ngàn kiếp

Luân hồi thọ thân căn chẳng đủ

Chẳng biết gì thiện gì bất thiện

Có tội không tội đều chẳng hiểu

Nay được thân người thật lành mạnh

Đầy đủ các căn lại thanh tịnh

Tất cả các nạn đều rời xa

Như rùa đáy biển gặp bọng nổi

Gặp được Thế Tôn đèn soi đời

Nghe dạy những Thánh Giáo ly dục

Giờ đây ta hỏi Đức Thế Tôn

Các nghiệp quả thiện và bất thiện

Gì là xan tham đọa các nẻo

Gì không xan tham làm thí chủ

Gì là tham nịnh ô nhiễm giới

Gì là luật nghi giữ toàn vẹn

Gì là giận thù não loạn người

Gì là không hờn sức nhẫn nhục

Gì là giải đãi tâm tán loạn

Gì là siêng năng ưa tịnh lự

Gì là ác kiến câm ngu si

Gì là thiện huệ rành chân thật

Gì là chuyên tu hành bồ đề

Tìm cầu đầy đủ hạnh Hiền Thánh

Gì là tâm từ khắp thế gian

Gì là cứu tế các ác đạo

Gì là ưa pháp lòng chẳng nhàm

Hay cầu bồ đề đại thừa tạng

Gì là qua đến mười phương cõi

Đứng trước Chư Phật hiện tại thế

Gì là kính thờ tu công đức

Gì là thưa hỏi hạnh Phổ Hiền

Nay đây ta phải siêng thỉnh hỏi

Đấng tôn trọng trong hàng Pháp Sư

Gì là với thầy vui kính dâng

Gì là làm vui lòng Sư Trưởng

Phật Tử đã sanh lòng như vậy

Hay họp phước lực rất lớn rộng

Và sức trí huệ thắng tự tại

Vui mừng cúng dường tất cả vật.

Này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm thứ bảy rồi, vì muốn cần cầu pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nên đối với thuyết Pháp Sư càng thêm kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ dùng đựng nước.

Lại này Xá Lợi Phất! Lúc thật hành Thi La Ba la mật, Đại Bồ Tát phát tâm như vậy: Từ lâu ta rời xa thiện hữu gần kề ác hữu nên lười biếng phóng túng siêng làm những việc hạ tiện ngu đần vô trí như câm, rời xa tất cả văn cú có chánh nghĩa, văn cú có chánh pháp, văn cú có tịch tĩnh có chỉ có quán, có Chánh Giác có Niết Bàn.

Rời xa những văn cú có nghĩa có lợi thắng diệu như vậy rồi trở lại học tập nghiên tầm thông đạt tất cả văn cú phi nghĩa, phi pháp, phi giác, phi Niết Bàn.

Do đó nên sanh ác kiến vọng cho rằng không có lực không có tinh tấn, không có quả trượng phu, không oai thế, không dũng mãnh, không công hạnh, không oai đức.

Lại quan niệm không nhân không duyên gì có thể khiến hữu tình nhiễm ô được, hữu tình tạp nhiễm chẳng do nhân duyên. Lại quan niệm không nhân không duyên gì có thể làm cho hữu tình thanh tịnh, hữu tình thanh tịnh chẳng do nhân duyên.

Đại Bồ Tát nghĩ rằng từ lâu vì y theo quan niệm vô nhân và bất bình đẳng nhân ấy nên ta gây nhiều nghiệp ác, do nghiệp ác ấy nên ta ở trong nhân loại cảm lấy thân tật nguyền, nơi các phước điền chưa nuôi lớn huệ mạng. Dầu ở trong loài người nhưng đồng với chậu úp ngu độn mù điếc không có năng lực thọ trì đọc tụng suy gẫm thông đạt những văn cú có chánh nghĩa nhẫn đến những văn cú tương ưng với Niết Bàn.

Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng vì xưa ta chẳng gặp thắng phước điền nên sanh vọng kiến. Nay ta được gặp thắng phước điền này, ta phải nương theo nuôi lớn huệ mạng, nhẫn đến chẳng kể thân mạng để cầu lực năng thông đạt những văn cú tương ưng với chánh nghĩa chánh pháp tịch tĩnh chỉ quán và Niết Bàn.

Những văn cú chánh nghĩa chánh pháp ấy đều nhiếp thuộc pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng. Nay ta thọ trì đọc tụng tư duy rốt ráo quyết sẽ phát khởi chánh cần tối thượng suốt đời thờ phụng thuyết Pháp Sư.

Nay ta y theo Thi La Ba la mật thật hành Bồ Tát hạnh để ở nơi pháp môn Bồ Tát tạng có thể thọ, có thể trì, có thể đọc, có thể tụng và tu hành cúng dường vậy. Đại Bồ Tát lại nghĩ rằng ta nên đem thân chẳng bền đổi thân bền chắc, phải khéo tu tập hai món tư lương phước và trí.

Do sức phước và trí ấy mà được thường gần gũi pháp môn Bồ Tát tạng. Suy nghĩ rồi, đối với thuyết Pháp Sư, Đại Bồ Tát kính thờ cúng dường nhẫn đến bố thí đồ đựng nước. Đây gọi là Đại Bồ Tát phát tâm thứ tám.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần