Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Chín - Pháp Hội Hư Không Mục - Phần Chín

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI CHÍN

PHÁP HỘI HƯ KHÔNG MỤC  

PHẦN CHÍN  

Này Bảo Kế! Bồ Tát ấy kế đến quán thọ niệm xứ.

Đối với kẻ có thọ Bồ Tát sanh tâm từ bi hướng đến các chúng sanh mà bảo rằng: Cứu cánh lạc ấy dứt tất cả thọ.

Nếu người có thể dứt tất cả thọ tức là thường lạc. Lúc bấy giờ Bồ Tát tuỳ sở thọ sanh tâm từ bi hoặc tự hoặc tha lúc thọ lạc thọ xa lìa tâm ái trước mà sanh tâm từ, lúc thọ khổ thọ xa lìa tâm sân mà sanh tâm bi, lúc thọ khổ bất lạc thọ thì xa lìa tâm vô minh mà sanh xả tâm.

Vì vậy nên Bồ Tát lúc thọ lạc chẳng sanh tham trước, lúc thọ khổ chẳng sanh sân hận, lúc thọ chẳng khổ chẳng lạc chẳng sanh vô minh. Bồ Tát lúc này quán tất cả thọ là vô thường khổ không vô ngã. Thấy người thọ lạc liền biết là khổ, thấy người thọ khổ như nhọt như ghẻ, thấy thọ chẳng khổ chẳng lạc là tịch tĩnh.

Quán lạc thọ là vô thường, quán khổ thọ là rỗng không, bất khổ bất lạc thọ là vô ngã. Lúc quán như vậy rồi, Bồ Tát thấy các thọ tức là không có thọ, thấy tất cả thọ là hữu vi. Nếu là hữu vi tức là sanh diệt tán lậu vô trụ. Quán như vậy chẳng thấy có ngã, chẳng thấy người thọ, đây gọi là Bồ Tát đại trí phương tiện.

Nhân phương tiện ấy, Bồ Tát thấy tất cả thọ vô thường sanh diệt, quán tất cả pháp thảy đều không vô, không có thọ không có thọ giả, không có tác không có tác giả, theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, không có thuộc không nhiếp thủ, nơi các nhân duyên chẳng sanh giác quán.

Nhân vì không có giác quán nên nói như vậy: Các pháp nhân duyên thảy đều là rỗng không. Lúc quán như vậy, Đại Bồ Tát thành tựu thọ niệm xứ có thể làm cho thân tâm thảy đều tịch tĩnh biết tất cả hành, đây gọi là nhất thiết trí. Đây gọi là tu thọ thọ niệm xứ.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát tu tâm niệm xứ?

Đại Bồ Tát trụ tâm bồ đề, quán sát tâm tánh ấy, chẳng thấy nội nhập tâm, chẳng thấy ngoại nhập tâm, chẳng thấy nội ngoại nhập tâm, chẳng thấy tâm ở trong ngũ ấm, chẳng thấy tâm ở trong thập bát giới.

Đã chẳng thấy tâm rồi, Bồ Tát suy nghĩ rằng: Tâm duyên như vậy là dị biệt hay chẳng dị biệt. Nếu tâm khác với duyên thì lẽ ra trong nhất thời có hai tâm, nếu tâm là duyên thì chẳng nên tâm lại hay quán tự tâm, như đầu ngón tay chẳng nên có tự chạm lấy nó.

Quán vậy rồi, Bồ Tát thấy tâm vô trụ vô thường biến dị, chỗ sở duyên diệt thì biết là tâm, chẳng phải tâm duyên sanh, chẳng phải chẳng duyên sanh, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải nội, chẳng phải ngoại, chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Bồ Tát quán tâm như vậy chẳng ngại pháp như, biết tâm tịch tĩnh. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.

Còn nữa, này Bảo Kế! Đại Bồ Tát quán tâm chẳng phải sắc chẳng thể nhìn thấy được, chẳng phải giác quán. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ. Như tâm, các tâm số cũng vậy. Như tâm số, các tâm hành cũng vậy. Như tâm hành, các pháp sở cầu của tâm cũng vậy. Như pháp sở cầu, bồ đề cũng vậy. Như bồ đề, tất cả thiện pháp cũng vậy.

Bồ Tát nếu quán tâm như di hầu, vẽ nước, sương mai, ong chúa, ngư mẫu, như sông, như lửa, như tưởng sự xa, như độc hành không thân, thường chuyển không dừng, tham trước các giới, thứ đệ sanh diệt, Bồ Tát có thể tư duy nhiếp vô lượng tâm như vậy, khiến trụ một chỗ chẳng động chẳng chuyển chẳng lậu chẳng lầm chẳng loạn chẳng tan. Đây gọi là Xa Ma Tha.

Bồ Tát nếu có thể quán như vậy, đây gọi là thành tựu quán tâm tâm niệm xứ. Đây gọi là biết tâm cảnh giới, là biết tâm pháp giới, là biết tâm chân thiệt tướng, là biết tâm chân thiệt tánh, tức là quảng tri, tức là tịnh tri, liễu tri, chân tri, thiệt tri như huyễn ảo, đây gọi là tri pháp, tri tâm tánh, tri tâm tận, gọi là vô thủ tri, vô quái ngại tri.

Đại Bồ Tát quán như vậy rồi, khéo biết tất cả chúng sanh tâm tánh. Biết rồi Bồ Tát như chỗ đáng nên mà vì họ Thuyết Pháp.

Như biết tâm tánh ấy, biết tất cả chúng sanh tâm tánh cũng như vậy.

Như biết tự tâm tướng, biết tất cả chúng sanh tâm tướng cũng như vậy.

Như biết tự tâm không, biết tất cả chúng sanh tâm không cũng như vậy.

Như quán tự tâm bình đẳng, quán tất cả chúng sanh tâm bình đẳng cũng như vậy.

Quán như vậy rồi, chẳng động pháp giới. Đây gọi là Bồ Tát tu tâm tâm niệm xứ.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát tu pháp niệm xứ?

Đại Bồ Tát quán sát như vậy: Pháp xuất pháp diệt không có ngã, chúng sanh, thọ mạng, sĩ phu, không sanh, không diệt, không một, không xuất, đây gọi là pháp tánh. Nếu hay cầu pháp đây gọi là xuất pháp, nếu chẳng cầu pháp đây gọi là diệt pháp.

Các pháp hoặc thiện hay bất thiện, pháp xuất theo duyên, pháp diệt theo duyên. Lúc quán như vậy, Bồ Tát quán nơi ba hành là ác hành, thiện hành và bất động hành.

Trong ba hành ấy, ta nên thường hành cực thiện hành là Thập Thiện pháp. Thập Thiện pháp ấy là tịnh thân nghiệp để cầu Như Lai ba mươi hai tướng tám mưới hình hảo người khác chẳng hại được.

Thập Thiện pháp ấy là tịnh khẩu nghiệp, phàm có lời nói ra mọi người thích nghe học. Thập Thiện pháp ấy là tịnh tâm nghiệp, với các chúng sanh tâm thường bình đẳng, thường nhập thiền định tịnh tứ vô ngại trí. Vì tịnh tâm bi nên trong vô lượng đời vì chúng sanh thọ khổ mà tâm chẳng hối.

Tịnh thập lực để biết chúng sanh các căn lợi độn. Tịnh tứ vô uý để biết chúng sanh chướng không chướng. Tịnh Thập Bát bất Cộng Pháp để biết Tam Thế vô ngại. Tịnh tất cả Phật Pháp vì tất cả chúng sanh không ai hơn được vậy.

Đại Bồ Tát hay quán như vậy thì ở nơi các thiện pháp và các công đức tâm không nhàm đủ, gần kề thiện hành xa lìa ác hành và phiền não tập khí, chân thiệt biết rõ bất động hành.

Dầu biết chẳng tham mà tâm được tự tại tuỳ nguyện Vãng Sanh chẳng phải kiết nghiệp sanh, Bồ Tát sanh vào Dục Giới là vì chúng sanh vậy.

Này Bảo Kế! Đại Bồ Tát được thiện phương tiện quán pháp niệm xứ tu tập trang nghiêm pháp trợ bồ đề, xa lìa tất cả cấu chướng bồ đề. Được công đức ấy, Bồ Tát chẳng trước thường kiến chẳng trước đoạn kiến, lìa hai kiến ấy hành nơi trung đạo.

Luận về trung đạo có hai pháp: Một là niệm bất thiện và hai là vô minh. Trong hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo.

Còn có hai pháp: Một là hành, hai là thức.

Còn có hai pháp: Một là danh sắc, hai là lục nhập.

Còn có hai pháp: Một là xúc, hai là thọ.

Còn có hai pháp: Một là ái, hai là thủ.

Còn có hai pháp: Một là hữu, hai là sanh.

Còn có hai pháp: Một là lão, hai là tử.

Trong những hai pháp ấy tâm chẳng phóng dật đây gọi là trung đạo. Trung đạo như vậy, trí huệ thế gian chẳng thể thấy được, chẳng tuyên nói được, chẳng hiển thị được, không có tướng mạo, không sắc, không xứ, không thủ, không xả, là thanh tịnh là tịch tĩnh.

Này Bảo Kế! Về trung đạo ấy, chẳng thể nhãn thấy được nhẫn đến chẳng thể thân xúc được, cũng không chỗ đến, cũng thế cũng xuất thế, chẳng tuyên nói được, chẳng phải nhiều chẳng phải ít, nên gọi là trung đạo.

Này Bảo Kế! Ngã cùng vô ngã gọi là nhị biên.

Nếu có Bồ Tát nói rằng: Chẳng thường chẳng đoạn, chẳng mạng căn chẳng sĩ phu, chẳng tưởng chẳng chẳng tưởng, chẳng giác chẳng chẳng giác, chẳng thiệt chẳng hư, chẳng thử chẳng bỉ, chẳng hữu chẳng vô, chẳng hữu vi chẳng vô vi, chẳng hành chẳng hành chẳng chẳng hành, chẳng sanh tử chẳng Niết Bàn. Đây gọi là trung đạo.

Còn nữa, này Bảo Kế! Đại Bồ Tát quán pháp pháp niệm xứ chẳng phân biệt pháp giới. Như pháp giới, chúng sanh giới cũng vậy. Hai giới như vậy gọi là hư không giới.

Pháp Giới ấy tức là chúng sanh giới. Chúng sanh giới ấy tức là vô phân biệt. Đây gọi là quán sát tất cả pháp bình đẳng, thấy tất cả giới tức là pháp giới. Dầu thấy rành rõ mà tâm chẳng thủ trước, vì không trước thì không phân biệt.

Đại Bồ Tát chẳng dùng nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn quán pháp niệm xứ, tại sao, vì ba nhãn như vậy không có tướng mạo.

Vì thế nên quán pháp, Bồ Tát dùng pháp nhãn. Dầu tỏ rõ biết mà Bồ Tát tâm chẳng trước. Dầu chẳng trước mà chẳng mất pháp giới, đây gọi là Phật trí. Có thể biết thậm thâm pháp giới như vậy mà chẳng mất nơi Nhất thiết trí niệm. Đây gọi là Bồ Tát tu pháp pháp niệm xứ.

Này Bảo Kế! Đại Bồ Tát cớ chi tu tập bốn niệm xứ ấy, vì muốn xa lìa bốn điên đảo vậy. Tu thân niệm xứ để lìa tịnh đảo. Tu thọ niệm xứ để lìa lạc đảo. Tu tâm niệm xứ để lìa thường đảo. Tu pháp niệm xứ để lìa ngã đảo.

Còn lìa bốn thứ thực: Tu thân niệm xứ để lìa đoàn thực, tu thọ niệm xứ để lìa xúc thực, tu tâm niệm xứ để lìa thức thực, tu pháp niệm xứ để lìa tư thực.

Còn xa lìa bốn trụ xứ của thức. Tu thân niệm xứ xa lìa trụ sắc xứ. Tu thọ niệm xứ lìa trụ niệm xứ. Tu tâm niệm xứ lìa trụ tưởng xứ. Tu pháp niệm xứ lìa trụ hành xứ.

Vì lìa Ngũ ấm mà tu tứ niệm xứ. Tu thân niệm xứ, để lìa sắc ấm. Tu thọ niệm xứ, để lìa thọ ấm. Tu tâm niệm xứ, để lìa thức ấm. Tu pháp niệm xứ, để lìa tưởng hành ấm. Đây gọi là Bồ Tát tịnh tứ niệm xứ hành.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh tứ chánh cần hành?

Đại Bồ Tát thường thích tu tập tất cả thiện pháp. Ác pháp chưa sanh vì chẳng sanh mà siêng tu tinh tiến. Ác pháp đã sanh vì xa lìa mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp chưa sanh vì sanh mà siêng tu tinh tiến. Thiện pháp đã sanh vì trụ vững chẳng mất mà siêng tu tinh tiến.

Đại Bồ Tát nơi vô lượng đời tu tập thiện hành vì vậy nên tánh thiện chẳng dùng phương tiện khiến ác chẳng sanh. Nếu Bồ Tát tu tứ chánh cần thì tâm được tự tại. Chánh cần ấy, Bồ Tát lúc ấy tâm và tâm số cùng đại từ đại bi hoà hiệp cộng hành, đây gọi là chánh cần.

Bồ Tát lúc bấy giờ kế thứ tu tứ như ý túc là dục, tâm, tiến và huệ. Chuyên niệm chí tâm niệm nơi bồ đề đây gọi là dục. Vì tu đại bi nên giác tâm nhẹ nhàng tiện lợi đây gọi là tâm.

Xa lìa ác pháp đây gọi là tinh tiến. Vì được phương tiện nên gọi là huệ. Bồ Tát tu tứ như ý túc rồi được bốn tự tại. Một là thọ mạng tự tại. Do tự tại nên dầu sanh đoản thọ mà tự được trường thọ để điều phục chúng sanh cùng kẻ trường thọ, nên diễn nói chánh pháp. Ở trong trường thọ có thể hiện đoản thọ. Tuỳ xứ nào Bồ Tát thọ sanh hoặc Trời hoặc loài người, Bồ Tát đều được thọ mạng tự tại.

Hai là thân được tự tại. Do tự tại nên tuỳ tâm mà làm thân, tuỳ tâm mà làm sắc, thị hiện oai nghi vì chúng sanh vậy. Bồ Tát nếu muốn thân mình cùng thân chúng sanh đồng cao lớn nhỏ bé đều có thể tuỳ tâm làm được cả.

Ba là được pháp tự tại. Vì tự tại nên có thể biết tất cả pháp thế gian tất cả pháp xuất thế. Chỉ dạy các chúng sanh tất cả thế sự, nơi xuất thế hành tâm cũng chẳng thối thất, biết rõ thậm thâm thập nhị nhân duyên được vô ngại trí có thể vì chúng sanh nói các pháp. Vô lượng chúng sanh nghe pháp ấy rồi phát tâm vô thượng bồ đề.

Bốn là nguyện được tự tại. Do tự tại nên có thể khiến bốn đại hải hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ, không có động chuyển như cũ không khác.

Cũng có thể khiến tất cả Tu Di Sơn trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới hiệp làm một mà chẳng lai chẳng khứ không có động chuyển như cũ không khác, với Tứ Vương Thiên Đao Lợi Thiên không có phòng ngại.

Nếu muốn khiến Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đều làm Kim Bảo, Thất Bảo, Chiên Đàn, anh lạc, hương hoa, hư không, thuỷ, hỏa đều tuỳ ý thành cả. Đây gọi là Bồ Tát được tứ tự tại.

Này Bảo Kế! Bồ Tát được Tứ Như Ý Túc thì được diện kiến Thập Phương Chư Phật cùng nói năng đi đứng một chỗ. Cũng diện kiến tất cả Phạm Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương cùng Thiên, Long, Dạ Xoa, Bát Bộ Thần đồng nói năng đi đứng một chỗ.

Thế nào là trang nghiêm Tứ Như Ý Túc?

Này Bảo Kế! Nếu Bồ Tát có thể cúng dường cha mẹ, Hoà Thượng, Sư Trưởng kỳ cựu có đức, thấy các chúng sanh tiên ý thăm hỏi, dịu dàng nói năng như lời mà làm, xem các chúng sanh tâm mình bình đẳng, thiện tâm, chánh tâm, cung kính tâm, tàm quí tâm, xa lìa tham dục sân khuể ngu si, không khi, không kiêu, không đố kỵ, không xan tham, kinh doanh sự nghiệp người như làm cho mình.

Người không có thế lực giúp họ thế lực, đường bùn lầy lấy đất đá lấp, nơi sông rạch bắc cầu làm đò, hoặc dùng thân mang gánh, hoặc cho thuyền chở, thường thí cho chúng sanh vật cần dùng, miệng chẳng nói sự suy não của người, cũng chẳng chê chọc người phạm tội, người có phạm tội hay như pháp trừ, ngăn các phiền não chẳng cho sanh khởi.

Vật mình trọng thích có thể đem cho, đã cho rồi tâm không hối, vì các chúng sanh mà phát nguyện hồi hướng, tín tâm dùng thiện pháp khuyên các chúng sanh chẳng tiếc thân mạng, thiểu dục tri túc nơi lợi dưỡng của người lòng không hi vọng, thường niệm xuất gia cũng khuyên người, niệm thiện tri thức lòng không xa rời.

Trong oán thân bình đẳng không hai, đem các thứ xe cho người đi đường, với người ốm thiếu thí cho giường nệm, kẻ bị khủng bố có thể cứu hộ, xem các chúng sanh như cha mẹ, chẳng khi người huỷ giới, đem tài vật cho kẻ nghèo, người bệnh gầy cho thuốc men, thi ơn nơi người chẳng tự kể nhắc.

Trọn chẳng đoạn tuyệt Tam Bảo chủng tánh, thường niệm vô vi xa lìa thế sự tất cả các pháp ác bất thiện, chẳng bị thế pháp nhiễm ô, chẳng mất niệm bồ đề chí tâm. Đây gọi là Bồ Tát trang nghiêm tịnh tứ như ý túc hành.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh ngũ căn hành?

Bồ Tát tín tâm chẳng thể động chuyển gọi là tín căn. Chẳng do người dạy bảo mà tự hành tinh tiến gọi là tinh tiến căn. Thường niệm bồ đề không quên gọi là niệm căn. Thường tu đại bi gọi là định căn. Nhiếp thủ thiện pháp gọi là huệ căn.

Còn nữa, tin các Phật Pháp không động chuyển gọi là tín căn. Tự cầu các Phật Pháp gọi là tinh tiến căn. Thường niệm các Phật Pháp gọi là niệm căn. Được Phật tam muội gọi là định căn. Dứt các lưới nghi gọi là huệ căn.

Còn nữa, tâm hướng bồ đề không nghi gọi là tín căn. Tăng trưởng thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Cầu thiện phương tiện gọi là niệm căn. Xem các chúng sanh lòng bình đẳng gọi là định căn. Quán thấy chúng sanh thượng trung hạ căn gọi là huệ căn.

Còn nữa, tâm thanh tịnh không trược cấu gọi là tín căn. Phá các tâm trược cấu gọi là tinh tiến căn. Thường niệm pháp thanh tịnh gọi là niệm căn. Quán tâm tánh thanh tịnh gọi là định căn. Hay khiến chúng sanh trụ pháp thanh tịnh gọi là huệ căn.

Còn nữa, xa lìa tất cả pháp tệ ác gọi là tín căn. Cầu các thiện pháp gọi là tinh tiến căn. Được thiện pháp rồi chẳng mất gọi là niệm căn. Đã được thiện pháp như thiện pháp mà trụ gọi là định căn. Tư duy các pháp thiện bất thiện và vô ký gọi là huệ căn.

Còn nữa, tín căn là tâm bố thí. Tinh tiến căn tức là ưa thí không thôi nghỉ. Niệm căn là sau khi thí chẳng cầu quả báo. Định căn là bình đẳng thí không có phân biệt. Hụê căn là chẳng quán sát phước điền và chẳng phước điền.

Còn nữa, tín căn là tâm sơ nhập thiện pháp. Tinh tiến căn là hay phá kiêu mạn. Niệm căn là rời ngã ngã sở. Định căn là xa lìa tất cả sáu mươi hai kiến. Huệ căn là xa lìa tất cả ác phiền não. Đây gọi là Bồ Tát tịnh ngũ căn hành.

Thế nào là Bồ Tát tịnh ngũ lực hành?

Này Bảo Kế! Đại Bồ Tát có đủ Ngũ Căn ấy không bị các chúng ma phá hoại thì gọi là ngũ lực. Tất cả Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa không bằng được, tất cả chúng sanh chẳng thể khiến thối thất đại thừa tâm được, tất cả phiền não chẳng thể phá hoại được, hay khiến có tâm thiểu dục tri túc thân được đại lực, khéo che các căn được thân kim cương, đây gọi là lực.

Này Bảo Kế! Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực trọn chẳng tạo tác tất cả các ác. Lúc trụ tinh tiến lực hay tạo tất cả thiện pháp. Lúc trụ niệm lực chẳng mất thiện pháp. Lúc trụ định lực chẳng bị ngũ dục làm hư. Lúc trụ huệ lực xa lìa tất cả kiết phiền não.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực chẳng theo lời người. Lúc trụ tinh tiến lực cầu thiện pháp chẳng dứt. trụ niệm lực được Đà La Ni. trụ định lực Thuyết Pháp bình đẳng. Lúc trụ huệ lực hay phá tâm nghi tất cả chúng sanh.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực thấy tội lỗi xan tham. Lúc trụ tinh tiến lực xa lìa xan tham. Lúc trụ niệm lực đem thiện pháp đã tu hồi hướng bồ đề. Lúc trụ định lực tâm bình đẳng. Lúc trụ huệ lực trọn chẳng cầu quả báo do bố thí, trì giới, thiền định.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực hay lìa tất cả trược cấu phá giới. Lúc trụ tinh tiến lực chí tâm đủ tịnh giới. Lúc trụ niệm lực đem trì tịnh giới ấy phát nguyện hồi hướng bồ đề. Lúc trụ định lực đủ thanh tịnh địa. Lúc trụ huệ lực xa lìa tác giới.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tâm sân hận. Lúc trụ tinh tiến lực tu tập nhẫn nhục. Lúc trụ niệm lực đem nhẫn nhục đã tu nguyện hồi hướng bồ đề. Lúc trụ định lực thủ hộ các chúng sanh. Lúc trụ huệ lực chẳng quán chúng sanh sĩ phu thọ mạng.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa giải đãi. Lúc trụ tinh tiến lực các thiện pháp đã tu đều đến bờ cứu cánh. Lúc trụ niệm lực đem tinh tiến đã tu nguyện hướng bồ đề. Lúc trụ định lực thân tâm tịch tĩnh. Lúc trụ huệ lực chẳng làm thiện ác.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa tất cả sự vội gấp. Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu thiền chi. Lúc trụ niệm lực đem định đã tu nguyện hướng bồ đề. Lúc trụ định lực tâm thường định. Lúc trụ huệ lực chẳng trước các định.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực xa lìa vô minh. Lúc trụ tinh tiến lực siêng cầu các thiện pháp. Lúc trụ niệm lực đem trí đã tu nguyện hướng bồ đề. Lúc trụ định lực tu thiện tư duy. Lúc trụ huệ lực như pháp mà trụ.

Còn nữa, Đại Bồ Tát lúc trụ tín lực có đủ bảy lực. Lúc trụ tinh tiến lực được trụ thất giác chi. Lúc trụ niệm lực được bát niệm xứ. Lúc trụ định lực được thất thức xứ. Lúc trụ huệ lực lìa bát tà chi.

Còn nữa, Đại Bồ Tát tâm ở nơi bồ đề không có thối chuyển gọi là tín lực tịnh tín lực hành. Chẳng thủ chẳng xả gọi là tinh tiến lực tịnh tinh tiến lực hành. Tu tứ niệm xứ gọi là niệm lực tịnh niệm lực hành. Điều phục tâm gọi là định lực tịnh định lực hành. Xa lìa các kiến biết thiện phương tiện gọi là huệ lực tịnh huệ lực hành.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát Tịnh Thất giác chi hành?

Đại Bồ Tát nếu trọn chẳng mất pháp trợ bồ đề đây gọi là niệm giác phần. Chẳng thủ chẳng xả Xa ma tha đây gọi là trạch pháp giác phần. Lìa tất cả ác đây gọi là tinh tiến giác phần. Lìa các sầu não đây gọi là hỉ giác phần.

Thân tâm tịch tĩnh đây gọi là trừ giác phần. Được vị giải thoát đây gọi là định giác phần. Sở tác đã xong đây gọi là xả giác phần.

Còn nữa, chẳng bỏ bồ đề tâm đây gọi là niệm giác phần. Chí tâm Hộ Pháp đây gọi là trạch giác phần. Điều các chúng sanh chẳng thôi nghỉ gọi là tinh tiến giác phần. Đầy đủ thiện pháp gọi là hỉ giác phần.

Lìa các phiền não gọi là trừ giác phần. Hay khiến các chúng sanh trụ trong Tam Muội gọi là định giác phần. Khiến các chúng sanh đều biết pháp tướng gọi là xả giác phần.

Còn nữa, Đại Bồ Tát chẳng niệm Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa gọi là niệm giác phần. Phân biệt tất cả pháp tự cú nghĩa gọi là trạch giác phần.

Lúc cầu thiện pháp ba nghiệp không thôi nghỉ gọi là tinh tiến giác phần. Lìa tâm oán thân gọi là hỉ giác phần. Như pháp mà trụ gọi là trừ giác phần. Tuỳ các thế gian mà hay điều phục gọi là định giác phần. Chẳng quán hai pháp gọi là xả giác phần.

Này Bảo Kế! Trợ bồ đề ấy giác tất cả pháp, biết tất cả pháp, phân biệt các pháp, tính lường các pháp, biết các chúng sanh tâm tánh tâm hành, đây gọi là bồ đề phần cũng gọi là thánh hành.

Thánh hành như vậy chẳng phải sở hành của tất cả phàm phu chúng ma tà kiến, chẳng phải sở hành sắc, thanh, hương, vị, xúc, chẳng phải tất cả pháp hành tất cả tướng, tất cả thọ, các tâm ý thức kiến văn giác tri, hữu tưởng, vô tưởng, nên gọi là Thánh hành.

Thánh hành ấy chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, cũng chẳng phải đại giác, mà có thể đối trị tất cả pháp, nhưng lại chẳng tranh tụng với các pháp, đây gọi là Thánh hành. Thánh hành ấy tức là tá trợ bồ đề.

Này Bảo Kế! Thế nào là Bồ Tát tịnh bát đạo hành?

Bát đạo là chánh kiến.

Thế nào là chánh kiến?

Chánh kiến là thấy tất cả pháp thảy đều bình đẳng. Chánh kiến như vậy chẳng gọi là không kiến, tại sao, vì tự có chánh kiến chẳng phải là không kiến.

Hai kiến như vậy cũng gọi là đồng kiến. Còn có ngã kiến, chúng sanh kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến.

Lại có chúng sanh kiến, thọ mạng kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến.

Còn có ngã kiến, đoạn kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến. Còn có hữu kiến, vô kiến, không kiến, chẳng gọi là chánh kiến. Ba kiến như vậy cũng lại đồng kiến.

Còn có bốn kiến: Phật kiến, pháp kiến, Tăng kiến và không kiến, đây gọi là chánh kiến. Bốn kiến như vậy chẳng gọi là không kiến.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần