Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Hai - Pháp Hội Bảo Nữ - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế  

PHÁP HỘI THỨ NĂM MƯƠI HAI

PHÁP HỘI BẢO NỮ  

PHẦN HAI  

Thánh Vương bạch Đức Phật Phân Biệt Kiến: Bạch Đức Thế Tôn! Đó là sự cúng dường gì, xin Đức Thế Tôn nói cho, chúng tôi rất muốn được nghe.

Đức Phân Biệt Kiến Như Lai nói kệ rằng:

Như hằng hà sa số Thế Giới

Trong ấy đầy báu đem cúng thí

Dầu được vô lượng phước như vậy

Chẳng bằng vì thương mà phát tâm

Chư Phật số như hằng hà sa

Dâng diệu hoa hương để cúng dường

Phước đức này so còn chẳng bằng

Phát tâm bồ đề bảy bất thối

Phát bồ đề tâm tức cúng dường

Giới nhẫn tinh tiến thiền trí huệ

Nếu vì lòng thương mà phát tâm

Phước ấy vô lượng chẳng cùng tận

Sắc đẹp lực tài dòng họ lớn

Người này mới phát được bồ đề

Chúa ngàn Thế Giới đến Phạm Thiên

Được đại tự tại mới phát được

Nếu thích mừng phát bồ đề tâm

Như vậy mới dứt được ác đạo

Hay vì nhân Thiên mở chánh đạo

Hay bít ác đạo và bát nạn

Các căn đầy đủ chẳng mù điếc

Đều do chí tâm phát bồ đề

Hay thấy mười phương các Thế Tôn

Hay phát trên Trời vị Cam Lộ

Nếu chí tâm phát đại bồ đề

Người này phá được nghi kiêu mạn

Vô lượng trí huệ được tự tại

Hay vì chúng sanh thuyết pháp giới

Chúng sanh thấy đó như cha mẹ

Tưởng như thầy bạn và lương y

Hay trị lành bệnh các phiền não

Dạy bảo khiến đến bồ đề đạo.

Thánh Vương Tịnh Đức Báo nghe Đức Phật Phân Biệt Kiến nói phát bồ đề tâm được công đức như vậy, lòng Vương rất vui mừng hớn hở vô lượng, cùng các quyến thuộc thể nữ và nhân dân đều phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, liền ở trước Đức Phật mà nói kệ rằng:

Nay tôi thương xót các chúng sanh

Nên phát bồ đề tâm như vậy

Nếu muốn có được đại tự tại

Chẳng nên thối chuyển bồ đề tâm

Sanh tử vô lượng sanh khổ não

Mà không lợi ích cho tự tha

Thà phát tâm này mà chịu khổ

Chẳng vì an vui mà chẳng phát

Nếu có ai phát tâm bồ đề

Liền được phước trời người Thánh Vương

Cũng được vui tịch tĩnh vô lậu

Và được vui vô thượng bồ đề

Huệ nhẫn tam muội tối vô thượng

Đủ tứ vô lượng và Lục Độ

Ba thứ tịnh huệ sáu thần thông

Bốn vô ngại trí đại tự tại

Vô thượng thập lực bốn vô úy

Và tam niệm xứ đại từ bi

Thành tựu thập bát bất cộng pháp

Tất cả đều do phát bồ đề

Hay chấn động mười phương Thế Giới

Cũng biết tâm chúng sanh mười phương

Hay độ vô lượng các chúng sanh

Đều do phát tâm bồ đề này.

Lúc nói kệ trên đây, có bốn vạn Trời người và vô lượng chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề. Thánh Vương Tịnh Đức Báo còn trong vạn ức năm cúng dường Đức Phật Phân Biệt Kiến. Sau thời gian cúng dường Đức Phật ấy rồi, Thánh Vương nhàm thế tục mà xuất gia.

Đã xuất gia rồi tư duy bốn câu đó là thiệt cú, pháp cú, nghĩa cú và điều cú. Trong một ức năm thường tư duy nghĩa của bốn câu ấy.

Này Xá Lợi Phất! Ông có biết Thánh Vương Tịnh Đức Báo thuở ấy là ai chăng, chính là thân đồng nữ Bảo Nữ này vậy.

Tôn Giả Xá Lợi Phất bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Do nghiệp duyên gì mà thọ thân đồng nữ này?

Đức Phật phán dạy: Này Xá Lợi Phất! Tất cả Chư Bồ Tát chẳng do nơi nữ nghiệp mà thọ thân nữ, chỉ là dùng sức thần thông mà thị hiện thân người nữ thôi, đó là vì điều phục các chúng sanh vậy.

Này Xá Lợi Phất! Nay ông cho rằng Bồ Tát Bảo Nữ thiệt là thân nữ ư?

Chớ có quan niệm như vậy. Tại sao, vì thọ thân nữ ấy là do sức trí huệ và sức thần thông.

Này Xá Lợi Phất! Bảo Nữ ấy từ lâu trong vô lượng kiếp đã lìa thân nam thân nữ. Thân ấy chẳng phải quá khứ cũng chẳng phải vị lai hiện tại.

Thân ấy tức là phương tiện thân. Thân phương tiện ấy giáo hóa chín vạn hai ngàn người nữ ở Thế Giới này phát tâm vô thượng bồ đề, vì vậy mà thị hiện thân phương tiện ấy.

Bảo Nữ nói với Tôn Giả Xá Lợi Phất: Nay Đại Đức có thể dùng thân nữ nhân để thuyết chánh pháp chăng?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Tôi ở nơi nam thân còn sanh lòng nhàm lìa hối hận huống là thân nữ.

Bảo Nữ nói: Đại Đức Xá Lợi Phất! Nay Đại Đức ở nơi nam thân sanh lòng nhàm hối ư?

Tôn Giả Xá Lợi Phất nói: Đúng như vậy đúng như vậy!

Bảo Nữ nói: Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất! Vì cớ ấy nên Chư Bồ Tát hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Tại sao, vì chỗ mà hàng Thanh Văn các Ngài nhàm hối ấy chính là chỗ ưa thích của Chư Bồ Tát chẳng có nhàm hối.

Hàng Thanh Văn chẳng cầu các cõi mà nơi ấy Chư Bồ Tát thọ lạc.

Hàng Thanh Văn ở nơi các công đức sanh lòng tri túc còn người Bồ Tát thì không có nhàm đủ.

Hàng Thanh Văn nhàm lìa phiền não còn người Bồ Tát thì ở trong phiền não mà không e sợ.

Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Bảo Nữ: Do sức lực gì mà hàng Bồ Tát lòng không nhàm lìa e sợ?

Bảo Nữ đáp: Thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát có tám sức lực, do đây nên ở trong đó không có nhàm lìa e sợ.

Một là từ lực, vì tâm vô ngại vậy.

Hai là bi lực, vì điều phục vậy.

Ba là thiệt lực, vì chẳng dối Chư Phật chính mình và các chúng sanh vậy.

Bốn là huệ lực, vì lìa phiền não vậy.

Năm là phương tiện lực, vì tâm chẳng hối vậy.

Sáu là công đức lực, vì vô sở úy vậy.

Bảy là trí lực, vì phá vô minh vậy.

Tám là tinh tiến lực, vì phá phóng dật vậy.

Thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát có đủ tám lực này nên tâm Bồ Tát chẳng nhàm sợ.

Tôn Giả Xá Lợi Phất hỏi: Này đồng nữ! Nay nhân giả có đủ tám lực này chăng?

Bảo Nữ đáp: Thưa Đại Đức! Nói là có đủ ấy tức là điên đảo. Điên đảo ấy tức là hai tướng. Hai tướng ấy tức là hữu vi. Hữu vi ấy tức là vô sở hữu. Vô sở hữu ấy tức là bình đẳng.

Thưa Đại Đức! Nếu là bình đẳng thì thế nào là hữu lực vô lực, thế nào có thể nói số nhất nhị.

Thưa Đại Đức! Tất cả pháp đều như hư không. Hư không ấy chẳng thể nói là nội là ngoại là trung gian, chẳng thể nói là sáng là tối. Như hư không tất cả pháp cũng đều như vậy. Nếu tất cả pháp đồng như hư không thì thế nào có thể nói là có lực vô lực là số nhất nhị.

Thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát cũng có lực cũng không lực.

Thế nào là có lực và thế nào là không có lực?

Thưa Đại Đức! Đại Bồ Tát không phiền não lực mà có trí huệ lực, không xan lẫn lực mà có huệ thí lực, không phá giới lực mà có trì giới lực, không sân hận lực mà có nhẫn nhục lực, không giải đãi lực mà có tinh tiến lực, không loạn ý lực mà có thiền định lực, không vô minh lực mà có trí huệ lực.

Vì vậy mà Bồ Tát lìa ác pháp tu tập thiện pháp, do đây Bồ Tát không ác pháp lực mà có thiện pháp lực.

Đức Thế Tôn khen rằng: Lành thay, lành thay! Nếu có thiện nam, thiện nữ nói được như vậy tức là thiệt thuyết.

Lúc đồng nữ Bảo Nữ nói pháp ấy, trong Pháp Hội có năm trăm Bồ Tát thành tựu vô sanh nhẫn.

Bảo Nữ lại bạch Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Như trong Khế Kinh nói, Đức Như Lai có thập thần lực, là tức thập lực là Thế Tôn hay ly thập lực mà có Thế Tôn?

Nếu tức thập lực là Thế Tôn, thì có số lượng là Nhị pháp, nếu là Nhị pháp tức là vô thường. Còn nếu ly thập lực mà có Thế Tôn thì sao Đức Phật nói tất cả các pháp bình đẳng.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu trong một lực mà có đủ thập lực thì sao Đức Phật chẳng nói bá lực. Nếu chẳng nói bá thì nên biết rằng một lực chẳng phải thập chẳng phải bá.

Đức Thế Tôn khen rằng: Lành thay, lành thay! Như Lai Thế Tôn chẳng phải nhất chẳng phải nhị. Nếu chẳng phải nhất nhị thì sao lại nói thập nói bá.

Đại Bồ Tát xa lìa nhất nhị chứng được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Như Lai Thế Tôn chẳng phải tức thập lực chẳng phải ly thập lực, có thể nói được mười sự ấy nên gọi Đức Như Lai có đủ thập lực. Như Lai nói thập lực ấy, mà trong một lực có đủ vô lượng lực. Vì lưu bố thế gian mà nói thập lực.

Bảo Nữ bạch rằng: Lành thay Đức Thế Tôn! Xin nói rộng thập lực ấy.

Đức Phật phán dạy: Này Bảo Nữ! Nên chí tâm lắng nghe kỹ, Phật sẽ phân biệt giải thuyết.

Này Bảo Nữ! Lúc Bồ Tát tu hành đạo bồ đề mà còn cầu Thanh Văn thừa còn tạo ác nghiệp thì không bao giờ có. Do tâm vững chắc ấy lúc được bồ đề thành tựu lực ban đầu.

Thành tựu lực ấy rồi Đức Như Lai ở trong đại chúng làm Sư Tử Hống chuyển chánh pháp luân mà tất cả Trời, Người, Ma, Phạm, Sa Môn, Bà La Môn đều chẳng thể chuyển được.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc ấy Bồ Tát tu hành đạo bồ đề biết rõ các nghiệp tức là một nghiệp, do sức này nên biết rõ tất cả các nghiệp quá khứ vị lai và hiện tại nghiệp nhân duyên xứ cùng nghiệp nhân duyên Phi Xứ. Đây là lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu nghiệp thứ hai.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát biết rõ căn của các chúng sanh rồi vì họ mà thuyết pháp, do đó là được bồ đề thành tựu lực thứ ba.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát quán rõ chúng sanh giới rồi vì chúng sanh mà thuyết pháp, do đó lúc được bồ đề thành tựu lực thứ tư.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát quán chúng sanh căn Thượng Trung Hạ, quán rồi liền hiểu mà vì họ thuyết pháp. Do hiểu biết ấy mà lúc được bồ đề thành tựu lực thứ năm.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát quán chí xứ đạo, những là hữu vi đạo, vô vi đạo, Thanh Văn đạo, Duyên Giác đạo, Bồ Tát đạo. Do quán đạo chí xứ nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu lực thứ sáu.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát cung kính tôn trọng tu tập các thiền định vì điều phục chúng sanh mà thuyết pháp yếu. Do tu tập thiền định như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu lực thứ bảy.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát đối với các thiện căn quá khứ vị lai và hiện tạichẳng hề phỉ báng nên thành tựu niệm tâm chẳng phóng dật, vì chẳng phóng dật, nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu lực thứ tám.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc Bồ Tát tu hành đạo bồ đề thấy người chưa học chẳng sanh lòng khinh khi, còn với chỗ mình đã học chẳng có lòng kiêu mạn, có thể ban cho chúng sanh trí huệ quang minh. Do ban cho quang minh, nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu lực thứ chín.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát dạy chúng sanh xa lìa các pháp hữu lậu chẳng cho nó tăng trưởng, dạy chúng sanh tán thán giải thoát tu tập đạo vô lậu, và Bồ Tát cũng vì chúng sanh mà nói đạo vô lậu. Do tu tập đạo vô lậu như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu lực thứ mười.

Này Bảo Nữ! Bồ Tát tu tập mười lực như vậy do đó có thể, lúc thành bồ đề đủ có Như Lai thập lực vậy.

Bảo Nữ lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tu hành những pháp gì mà được tứ vô sở úy và mười tám pháp bất cộng?

Đức Phật phán dạy: Này Bảo Nữ! Lúc tu tập đạo bồ đề, Bồ Tát ở nơi diệu pháp đã được chẳng hề tham lẫn, chẳng nghĩ rằng nếu ta dạy người có thể người sẽ hơn ta.

Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh tâm thường bình đẳng, Bồ Tát có thể xả bỏ của trong của ngoài mà thí cho tất cả.

Bồ Tát quán sát pháp giới không có các loại tướng dạng. Do nhân duyên ấy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu vô sở úy thứ nhất.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, với tất cả pháp chướng ngại đạo Bồ Tát đều biết rõ, vì đã biết rõ nên chẳng làm chẳng theo những pháp chướng đạo ấy, và cũng chẳng ca ngợi cùng đem dạy người.

Bồ Tát biết rõ là pháp chướng đạo rồi liền xa lìa nó. Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu vô sở úy thứ hai.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường tu đạo thanh tịnh thường nói pháp thanh tịnh, tu trị trang nghiêm vì được pháp thanh tịnh vậy.

Trang nghiêm như vậy cũng tự tu trị mà cũng đem dạy bảo chúng sanh. Do nhân duyên ấy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu vô sở úy thứ ba.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát trọn chẳng có lòng kiêu mạn, trọn chẳng nói là ta biết ta thấy, che giấu các công đức mà hiển bày các tội lỗi. Do nhân duyên này nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu vô sở úy thứ tư.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, đối với chúng sanh thất đạo Bồ Tát chỉ dạy họ chánh đạo. Bồ Tát trừ bỏ những gai độc những ngói đá trên các đường sá. Đường nước hiểm tuyệt, Bồ Tát làm cầu đò ban thí. Chỗ tối tăm, Bồ Tát sắp đặt đèn sáng.

Thấy người phạm tội Bồ Tát có thể khiến họ điều phục, có thể trừ các nghi hối của chúng sanh. Với người chẳng phải tội phạm, chẳng cưỡng ép phải nói phạm tội.

Bồ Tát trừ lòng nghi chánh pháp của chúng sanh, ban cho họ ánh sáng chánh pháp, khuyên thỉnh thuyết pháp.

Thấy người thuyết pháp, Bồ Tát liền khen thiện tai và cung kính tôn trọng không có lòng khinh khi mà muốn được hiểu biết. Với tất cả chúng sanh mà lời nói thanh âm chẳng tốt, Bồ Tát không có lòng khi dễ. Do nhân duyên như vậy, nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu pháp bất cộng thứ nhất.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường thiệt ngữ, pháp ngữ, nghĩa ngữ, thời ngữ, điều phục ngữ, thường nói lời chẳng sai, lời xa lìa các ác, lời thánh nhân. Nếu được nghe chánh pháp rồi Bồ Tát chuyển nói lại người khác vì để lợi mình mà cũng lợi cho người. Lúc nói chẳng hề khinh khi chẳng sanh sự cãi cọ.

Tự mình tin Phật Pháp Tăng cũng khiến chúng sanh tin Phật Pháp Tăng. Bồ Tát quán các pháp giới chẳng thể tuyên nói. Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề, biết rõ tất cả ngữ ngôn, được vô lượng môn tổng trì phương tiện.

Vì vậy mà nơi thân có đủ tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông trên thân đều phát xuất âm thanh vi diệu Như Lai. Đây gọi là pháp bất cộng thứ hai.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường tu lục niệm và cũng dạy cho chúng sanh tu lục niệm. Do nhân duyên này mà lúc Bồ Tát được bồ đề chẳng thất niệm tâm mà cũng được pháp chứng tổng trì phương tiện.

Giả sử có vô lượng chúng sanh trong vô lượng kiếp tư duy thâm nghĩa đồng thời đến hỏi Phật, Đức Như Lai chẳng cần sức tư duy mà có thể trong một thời gian đều theo chỗ hỏi mà đáp tất cả. Đây gọi là pháp bất cộng thứ ba.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường thủ hộ tâm chúng sanh, chẳng làm nhân loạn tâm, nhân các khổ não cho chúng sanh, lúc thấy các chúng sanh làm những thiện pháp thì chẳng trở ngại chẳng làm rối loạn, biết rõ các pháp đều như tướng huyễn ảo, nơi các chúng sanh tâm Bồ Tát luôn bình đẳng, biết các pháp giới đồng nhất vị.

Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề tâm thường định được vô biên văn tổng trì phương tiện, được tổng trì này rồi thì tâm thường tại định mà làm Phật Sự. Đây gọi là pháp bất cộng thứ tư.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát tưởng chẳng điên đảo, tâm chẳng điên đảo, vì chẳng điên đảo nên ở trong vô ngã chẳng có tưởng là ngã, cũng chẳng có tưởng là nhân, là chúng sanh, là thọ mạng, là sĩ phu, là nam, là nữ, là kiêu mạn, là phiền não, là thường, là đoạn, là hữu, là vô, là thiện, là ác, là cấu, là tịnh, là hũu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là sanh tử, là Niết Bàn.

Vì có điên đảo tưởng nên tất cả chúng sanh có những tưởng như vậy. Nếu không có điên đảo thì không có những tưởng ấy mà hành nơi trung đạo. Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu nhất tưởng không có nhị tưởng.

Vì tu chánh định như vậy nên được vô tận khí tổng trì phương tiện, do sức tổng trì ấy mà tâm thường tu tập vô tưởng Tam Muội, thương mến chúng sanh tu tập đại bi thuyết pháp chẳng thôi nghỉ. Đây gọi là pháp bất cộng thứ năm.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát tu tập xả tâm, bỏ những khổ lạc chẳng khổ chẳng lạc, chẳng mừng chẳng sầu, chẳng ái chẳng sân, vì vậy mà với các cảnh lợi suy hủy dự tâm không có hai, thường quán vô thường khổ vô ngã v.v… cũng giáo hóa chúng sanh tu tập pháp xả ấy.

Do nhân duyên này nên lúc Bồ Tát được bồ đề gọi là đại xả.

Được đại xả này rồi liền được đại hải ấn tổng trì phương tiện. Do sức tổng trì này nên dầu được các hàng Thiên, Nhân, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Càn Thát Bà, Ma Hầu La Già, Thích Thiên, Phạm Thiên cung kính cúng dường chẳng lấy đó làm mừng, dầu có hàng tà kiến ác nhân khinh mạn mắng nhục chẳng lấy đó làm buồn, tâm thường bình đẳng như địa thủy hỏa phong chẳng thượng chẳng hạ chẳng động chẳng trược tu đại từ bi.

Đây gọi là pháp bất cộng thứ sáu.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát chí tâm cầu pháp bồ đề thậm thâm các thứ thiện căn vô thượng mà chẳng cầu Thanh Văn thừa, tu tập đại bi, các tâm như vậy không hề thối chuyển.

Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành Như Lai dục bất tăng bất giảm chứng được kim cương tràng tổng trì phương tiện được tự tại tri.

Thế nào nói là tri?

Đó là biết nói sự gì, biết lúc nào nói, biết chỗ nào nói, biết vì hàng chúng sanh nào mà nói. Đây gọi là pháp bất cộng thứ bảy.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường siêng tu tinh tiến, với các pháp lành tâm chẳng biết chán đủ, cung kính cúng dường các bậc Hòa Thượng thiện hữu tri thức và cũng thường gần kề thích được nghe chánh pháp rồi theo chỗ được nghe mà thọ trì.

Bồ Tát tinh tiến như vậy vì điều phục chúng sanh, vì muốn cúng dường vô lượng Chư Phật, vì muốn vô lượng vô biên chúng sanh được Vô Thượng Đạo, cũng làm cho họ được tinh tiến như vậy nhập vào pháp môn.

Do nhân duyên như vậy mà được văn Phật Pháp tổng trì phương tiện. Vì vậy mà lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu Như Lai tinh tiến không giảm, do vì tinh tiến mà đầy đủ thần thông. Đây là pháp bất cộng thứ tám.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát có đủ niệm tâm tu tập Tứ Niệm Xứ quán nội thân ngoại thân là vô thường khổ vô ngã, với thọ với tâm và với pháp cũng tu tập quán niệm như vậy.

Bồ Tát tu tập không tam muội, vô tướng tam muội, vô nguyện tam muội, vì Như Lai thân mà quán thân niệm xứ chẳng chứng giải thoát.

Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu Như Lai niệm tâm không giảm, được tri tâm thông biết rõ nơi các chúng sanh những căn, những giới, những giải, những nghiệp, những phiền não, những hành, những tập khí, những tâm xứ, những thiện căn, những ác căn.

Những quả báo sanh diệt các hữu các cõi, cũng biết rõ Chư Phật Thế Giới, đại chúng các thừa, các hạnh Bồ Tát được thọ ký, cũng biết rõ cha mẹ, thân tộc, Sư Trưởng, Hòa Thượng, tất cả như vậy đều biết rõ cả mà chẳng mất niệm tâm. Đây là pháp bất cộng thứ chín.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát thường tu trí huệ, những là lợi huệ, tật huệ, vô biên huệ, thậm thâm huệ, giải huệ, tịnh huệ, bất động huệ, vô ngại huệ, vô thắng huệ, huệ biết rõ Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, huệ vô thượng, huệ bất tri túc.

Bồ Tát tu tập đầy đủ những huệ như vậy cầu huệ cầu pháp thọ trì pháp diễn thuyết pháp ưa thích chánh pháp.

Vì thích chánh pháp nên với các vật trong thân ngoài thân Bồ Tát không hề tham trước, đối với Sư trưởng, Hòa thượng Bồ Tát hay chịu được các sự khổ nhọc, đem các vật cần dùng dâng hiến, vì nghĩa một chữ một câu mà có thể đem trân bảo mười phương Thế Giới để dâng cúng pháp Sư.

Vì nhân duyên cầu một bài kệ, Bồ Tát có thể xả thân mạng.

Dầu trong vô lượng hằng hà sa kiếp tu hành bố thí chẳng bằng một lần nghe pháp bồ đề lòng rất vui mừng. Bồ Tát ở nơi chánh pháp Thích nghe thích nói. Bồ Tát này thường được Chư Phật Chư Thiên hộ niệm.

Do sức hộ niệm nên trong thế gian có bao nhiêu Kinh Điển sách Luận đều có thể thông đạt cả. Do nhân duyên như vậy nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu Như Lai trí huệ vô tăng vô giảm.

Các trí ấy gọi là vô ngại trí.

Trí này biết rõ tất cả chúng sanh tâm, biết rõ những thiện bất thiện và vô ký, biết rõ hữu lậu vô lậu thế gian xuất thế gian, biết rõ pháp cấu uế pháp thanh tịnh sanh tử Niết Bàn, biết rõ tất cả pháp môn, tất cả bồ đề sự, tất cả bồ đề đạo, biết rõ tất cả Thế Giới, tất cả kiếp, tất cả vi trần, tất cả những sự quá khứ vị lai hiện tại như vậy, đều biết rõ thông đạt vô ngại thuyết pháp vô tận.

Do nhân duyên như vậy nên Đức Như Lai có thể trong một pháp diễn nói vô lượng pháp. Đây là pháp bất cộng thứ mười.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát chẳng thích ở nhà cầu thọ ngũ dục mà thường thích ở nơi rảnh rang vắng lặng tu pháp xuất gia, thích tu nghĩa thậm thâm và ba môn giải thoát.

Do sức tu ấy mà được pháp môn vô ngại, vô ngại trí quá cảnh giải ma trang nghiêm đầy đủ xa lìa phiền não và các ác kiến, diễn nói nghĩa thậm thâm phá lòng nghi của chúng sanh, trừ bỏ tất cả ác giác quán phá Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

Vì các chúng sanh tham trước mà diễn thuyết chánh pháp cho họ lìa tham, vì chúng sanh nhiều sân hận mà diễn thuyết từ tâm cho họ lìa sân hận, vì kẻ ngu si diễn nói thập nhị nhân duyên cho họ lìa vô minh.

Vì kẻ xan tham mà nói bố thí Ba la mật, vì kẻ phá giới mà nói giới Ba la mật, vì kẻ giận thù mà nói nhẫn Ba la mật, vì kẻ giải đãi mà nói tinh tiến Ba la mật, vì kẻ loạn tâm mà nói thiền Ba la mật.

Vì kẻ vô trí mà nói bát nhã Ba la mật, vì phàm phu mà nói Tứ chơn đế, vì người điên đảo kiến mà nói vô thường, vô tịnh, vô lạc, vô ngã, vì người bị kiết phược mà nói ba mươi bảy pháp trợ bồ đề.

Bồ Tát có đủ những pháp như vậy, do nhân duyên ấy mà lúc được bồ đề thành tựu Như Lai giải thoát vô tăng vô giảm.

Giải thoát như vậy không gì lay động được, rốt ráo thanh tịnh rốt ráo giải thoát, có thể biết rõ thấy rõ Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, và Vô Thượng Phật thừa, cũng được thanh tịnh tổng trì phương tiện.

Do sức tổng trì này mà có thể diễn nói giải thoát được đại tự tại. Đây là pháp bất cộng thứ mười một.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát cung kính trí huệ được thế lực trí huệ được quang minh trí, được trí biết rõ quyến thuộc, biết rõ tâm vô tham, tâm vô sân, tâm vô si, tâm vô ái, tâm vô cấu, tâm vô tranh, tâm vô thực, tâm vô thượng, tâm vô ngại, tâm vô ký, tâm thiện, tâm bất thiện, tâm ác, tâm tịnh, tâm bất tịnh, cũng được trí biết rõ tâm đại tâm tiểu.

Tâm hẹp tâm rộng, tâm biết khắp tâm chẳng biết khắp, tâm tham tâm xả, tâm trì giới tâm phá giới, tâm nhẫn, tâm chẳng nhẫn, tâm giải đãi tâm tinh tiến, tâm định tâm loạn, tâm si tâm huệ, tâm phàm tâm thánh, tâm chánh định tụ, tâm tà định tụ, tâm bất định tụ, tâm Thanh Văn, tâm Duyên Giác, tâm Bồ Tát, tâm Khổ Đế, tâm Tập Đế, tâm Diệt Đế, tâm Đạo Đế.

Dầu biết rõ như vậy mà không thủ chứng, vì điều phục chúng sanh mà thường thuyết pháp, đó là tứ đế, thập nhị nhân duyên xa lìa đoạn kiến ngã kiến, nói nhân duyên quả từ duyên mà sanh chẳng phải do nơi ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu.

Biết rõ vô minh làm nhân duyên cho hành, hành làm nhân duyên cho thức, thức làm nhân duyên cho danh sắc, danh sắc làm nhân duyên cho lục nhập, lục nhập làm nhân duyên cho xúc, xúc làm nhân duyên cho thọ, thọ làm nhân duyên cho ái, ái làm nhân duyêncho thủ, thủ làm nhân duyên cho hữu, hữu làm nhân duyên cho sanh, sanh làm nhân duyên cho lão tử ưu bi khổ não.

Vì vô minh diệt nên hành diệt, vì hành diệt nên thức diệt, vì thức diệt nên danh sắc diệt, vì danh sắc diệt nên lục nhập diệt, vì lục nhập diệt nên xúc diệt, vì xúc diệt nên thọ diệt, vì thọ diệt nên ái diệt, vì ái diệt nên thủ diệt, vì thủ diệt nên hữu diệt, vì hữu diệt nên sanh diệt, vì sanh diệt nên khối lão tử ưu bi khổ não diệt.

Quán biết rõ như vậy rồi lại suy nghĩ rằng các pháp như vậy thiệt chẳng phải ngã làm ra cũng chẳng phải chúng sanh thọ mạng hay sĩ phu làm ra, nó chẳng phải thường chẳng phải đoạn.

Nếu đã không có ai làm ra thì pháp ấy gọi là rỗng không.

Nếu nó đã rỗng không thì tức là không có ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu, không có thường không có đoạn, nếu là không có thường và đoạn thì tức là không có sanh không có diệt, nếu là không có sanh diệt thì không bị nhiếp thuộc Tam Thế, nếu chẳng nhiếp thuộc tam thế thì gọi là không có.

Nếu là không có thì chẳng tính đếm, nếu không có tính đếm thì tức là đệ nhất nghĩa, đệ nhất nghĩa ấy tức là Như Lai ngữ, Như Lai ngữ ấy thì không có đấu tranh, không đấu tranh ấy gọi là pháp Sa Môn, pháp Sa Môn ấy tức là hư không.

Nếu có thể biết rõ các pháp như vậy thì gọi là biết rõ như thiệt.

Nếu quán sát tư duy những ác nhân duyên thì sanh khởi vô minh nhẫn đến sanh khởi khối khổ não lớn.

Nếu ác tư duy diệt thì vô minh diệt nhẫn đến khối đại khổ não diệt.

Quán như vậy rồi chẳng sanh thường kiến chẳng sanh đoạn kiến, biết tất cả pháp theo duyên mà sanh theo duyên mà diệt, biết tất cả pháp không có ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu, chẳng thấy có kia đây và trung gian, tại sao, vì nếu không bên này bên kia thì đâu có chính giữa, Bồ Tát thuyết pháp như vậy.

Do nhân duyên này nên lúc Bồ Tát được bồ đề thành tựu Như Lai giải thoát trí không tăng không giảm, cũng được vô biên tổng trì phương tiện.

Do sức tổng trì này y nơi pháp giới quán hư không giới mà diễn nói thị xứ phi xứ nhẫn đến lậu tận, lực, vô sở úy, đại từ đại bi, tuyên nói tạng pháp thậm thâm bí mật, cũng đem pháp này giáo hóa các chúng sanh, không cùng chung với hàng nhị thừa, thân khẩu ý nghiệp có đủ thần thông.

Đây là pháp bất cộng thứ mười hai.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, tất cả thân nghiệp của Bồ Tát đều tùy trí huệ hành, chẳng khi chúng sanh mà làm phòng ngại, không xan không tham không có lòng làm tổn hại, phạm hạnh thanh tịnh siêng tu tinh tiến, tập họp pháp trợ đạo chẳng tiếc thân mạng, vì các chúng sanh mà phát khởi đại từ bi.

Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai tất cả thân nghiệp tùy trí huệ hành, được nhất thiết quang tổng trì phương tiện, do sức tổng trì này mà có thể làm các loại thân phương tiện, đó là thân Trời, thân Rồng, thân Dạ Xoa, thân Càn Thát Bà, thân A Tu La, thân Ca Lâu La, thân Khẩn Na La, thân Ma Hầu La Già, thân Phạm Vương, thân Thiên Đế Thích, thân Tứ Thiên Vương, thân Sát Đế Lợi, thân Bà La Môn, thân Tỳ Xá, thân Thủ Đà, thân Tỳ Kheo, thân Tỳ Kheo Ni, thân Ưu Bà Tắc, thân Ưu Bà Di.

Thị hiện các loại thân như vậy rồi vì các loài chúng sanh mà tùy ý thuyết pháp, thuyết pháp giáo hóa rồi liền ẩn mất làm cho các chúng sanh chẳng biết được ở đâu, hoặc thân ẩn mất rồi mà pháp được diễn nói vẫn còn, tất cả chúng sanh sáu căn chiêm ngưỡng không biết chán đủ, vì không còn thấy được thân nên thường nhớ tưởng. Đây là pháp bất cộng thứ mười ba.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát khẩu nghiệp tất cả đều tùy trí huệ hành, chẳng khi chúng sanh, chẳng vọng ngôn lưỡng thiệt ác khẩu vô nghĩa ngữ, thường nói lời an ổn, lời chánh pháp, lời giới luật, lời dịu mát, lời Phật, lời có ý nghĩa, lời thích nghe, lời vui nghe.

Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai tất cả khẩu nghiệp tùy trí huệ hành, được tam phần tổng trì phương tiện, do sức tổng trì này mà hiểu rõ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh, diễn nói những nghiệp của tất cả chúng sanh, lời Đức Phật phán ra đều là chân thật ngữ, là thập nhị nhân duyên, lời giải thoát, lời chẳng tham, lời tịch tĩnh, lời nhân duyên. Đây là pháp bất cộng thứ mười bốn.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát ý nghiệp tất cả đều tùy trí huệ hành, chẳng khi chúng sanh, chẳng ganh chẳng hại, chẳng khởi tà kiến mà tu tập chánh kiến, khởi đại từ bi với các chúng sanh tâm Bồ Tát thường bình đẳng, trọn chẳng quên mất tâm bồ đề, đầy đủ trí huệ, trừ bỏ kiêu mạn.

Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai tất cả ý nghiệp tùy trí huệ hành, được vô cấu tổng trì phương tiện.

Do sức tổng trì ấy mà Như Lai an trụ trong nhất tâm có thể biết rõ tất cả tâm của các chúng sanh, quán tâm chúng sanh đều bình đẳng như tướng huyễn hóa bổn tánh thanh tịnh, quán thân chúng sanh đều bình đẳng như trăng trong nước.

Thấy thân của các chúng sanh ở trong thân mình và thân mình cũng ở trong thân các chúng sanh dường như bóng tượng hiện trong gương, có thể làm cho thân các chúng sanh đều làm thân Phật, cũng làm cho thân mình làm thân chúng sanh, tất cả không gì làm chuyển động được. Đây là pháp bất cộng thứ mười lăm.

Còn nữa, này Bảo Nữ! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát tin quá khứ Chư Phật trí huệ thân khẩu ý nghiệp thuần thiện không hề nghi hoặc. Lúc được nghe Phật Sự chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng kinh chẳng sợ.

Bồ Tát cũng tin quá khứ Chư Phật Thế Giới các chúng sanh đã được điều phục, tin thân Phật đi qua lại mười phương tất cả Thế Giới vô ngại, Chư Phật hay hiểu rõ ngôn ngữ của tất cả chúng sanh tùy theo mỗi loài mà thuyết pháp cho họ, với tất cả tam thế trí huệ Phật vô ngại.

Biết rõ quá khứ tất cả Thế Giới tất cả các thừa, thần thông biết rõ tất cả nghiệp quả chúng sanh, trí biết rõ tâm tất cả chúng sanh, đối với tất cả sự như vậy tâm Bồ Tát vững tin không nghi, Bồ Tát cũng giáo hóa chúng sanh khiến được lòng tin đồng như lòng tin của mình.

Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai trí huệ vô ngại biết rõ quá khứ thế, nhân vì từ trước tu tập dũng kiện Tam Muội nên nay được kiện hành tổng trì phương tiện.

Do sức tổng trì này mà có thể biết rõ quá khứ Chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ quá khứ Chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ quá khứ Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông.

Cũng biết rõ bao nhiêu kiếp quá khứ hoặc có Phật xuất thế hoặc không Phật xuất thế và danh hiệu của Chư Phật, quá khứ các Thế Giới hoặc tịnh hoặc uế, hoặc rộng, hoặc hẹp, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thuận, hoặc ngược cho đến biết rõ vi trần v.v…, tất cả đều biết rõ ràng như xem trái cây trong bàn tay.

Đây là pháp bất cộng thứ mười sáu.

Còn nữa, này Bữu Nử! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát tin vị lai thế Chư Phật trí huệ thân khẩu ý nghiệp thuần thiện không có nghi hoặc. Lúc nghe Phật Sự bất khả tư nghị không kinh không sợ.

Bồ Tát tin vị lai Phật Thế Giới chúng sanh đều sẽ điều phục, tin vị lai Chư Phật qua lại vô ngại mười phương Thế Giới, hay hiểu rõ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh tùy theo mỗi loài mà thuyết pháp, với tất cả tam thế trí huệ vô ngại, biết rõ vị lai tất cả pháp giới tất cả các thừa, biết rõ tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, trí biết rõ tâm chúng sanh.

Với tất cả sự như vậy, Bồ Tát vững tin không hề nghi, cũng giáo hóa tất cả chúng sanh khiến họ có đồng tín tâm như mình. Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai trí huệ biết rõ vị lai thế vô ngại. Nhân vì thuở trước tu tập biết tâm Tam Muội nên nay được sư tử hống tổng trì phương tiện.

Do sức phương tiện này có thể biết rõ vị lai thế Chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết rõ vị lai Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật, tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, cũng biết rõ vị lai bao nhiêu kiếp có Phật xuất thế không Phật xuất thế và Danh Hiệu của Chư Phật vị lai ấy.

Biết rõ vị lai các Thế Giới hoặc tịnh hoặc uế, hoặc rộng hoặc hẹp, hoặc thô hoặc tế, hoặc thuận hoặc ngược, cho đến vi trần v.v… tất cả đều biết rõ như xem trái cây trong bàn tay. Đây là pháp bất cộng thứ mười bảy.

Còn nữa, này Bữu Nử! Lúc tu hành đạo bồ đề, Bồ Tát tin hiện tại thế Chư Phật trí huệ thân ngữ ý nghiệp thuần thiện không hề nghi hoặc, lúc nghe Phật Sự bất khả tư nghị không kinh không sợ, tin hiện tại mười phương Chư Phật Thế Giới chúng sanh đều được điều phục.

Tin chư Như Lai đi qua lại mười phương Thế Giới vô ngại, hiểu rõ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh tùy theo mỗi loài mà thuyết pháp giáo hóa, với tất cả tam thế trí huệ thông đạt vô ngại, biết rõ hiện tại tất cả pháp giới tất cả các thừa biết rõ các chúng sanh nghiệp quả thần thông, trí biết rõ tâm chúng sanh.

Với tất cả sự như vậy tin chắc không nghi, cũng giáo hóa chúng sanh đồng tin như mình. Do nhân duyên như vậy nên lúc được bồ đề gọi là Như Lai biết rõ hiện tại thế trí huệ vô ngại. Do thuở trước tu tập tịnh Tam Muội nên được kim cương tổng trì phương tiện.

Do sức tổng trì này biết rõ hiện tại mười phương Chư Phật Thế Tôn thọ mạng chủng tánh, cũng biết hiện tại tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác và tất cả chúng sanh nghiệp quả thần thông, cũng biết hiện tại tất cả kiếp có Phật xuất thế hay không Phật xuất thế và Danh Hiệu, Thế Giới tịnh hay uế, rộng hay hẹp, thô hay tế, thuận hoặc ngược, cho đến vi trần v.v… đều biết rõ tất cả như xem trái cây trong bàn tay.

Đây là pháp bất cộng thứ mười tám của Đức Phật Thế Tôn.

Này Bảo Nữ! Như Lai còn có pháp bất cộng nữa, đó là vô kiến đảnh, tại sao, vì là vô biên thân vậy. Không có ai hơn được nên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả sự đầy đủ vậy.

Ai thấy đều trừ khổ nãonên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì thân Phật như được thọ vậy. Ở trong đại chúng vô úy khiếp nên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì Phật cứu cánh đủ bốn vô sở úy vậy.

Biết rõ tâm chúng sanh nên gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tùy ý thuyết pháp vậy. Đồ chúng tịch tĩnh gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì thuận theo lời Phật dạy vậy.

Phật phát ngôn thanh tịnh gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì chẳng bao giờ nói lời vô nghĩa vậy.

Phật tuyên nói người nghe đều hoan hỉ gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì rời lìa ý tưởng oan thân vậy. Tiếng Phật thuyết pháp vừa đủ chúng nghe gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì nếu thừa dư thì vô ích vậy.

Mỗi mỗi chúng sanh đều riêng thấy Đức Phật ở ngay trước mình lúc nhìn ngắm mắt chưa bao giờ nháy gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì thân Phật bất khả tư nghị vậy. Người nghe Phật thuyết pháp chắc chắn sanh mầm lành gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì Phật đã thành tựu vô lượng công đức vậy.

Ai thấy Phật đều không nhàm gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì giác ngộ tất cả pháp vậy.

Cất mình đoái lại nhìn như tượng vương ngó gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì oai nghi thanh tịnh vậy. Đại Sư tử hống gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì đầy đủ các lực vậy.

Oai nghi thuần thiện gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả thân nghiệp tùy trí hành vậy. Khẩu nghiệp thuần thiện gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả khẩu nghiệp tùy trí hành vậy. Tất cả nhãn nhục gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì tất cả ý nghiệp tùy trí hành vậy.

Thanh âm của Phật tất cả chúng sanh đều thích nghe gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì ngữ ngôn vi diệu vậy. Thọ hưởng thượng cúng dường gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì là vô thượng phước điền vậy. Vô tận công đức gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì chẳng cầu quả báo vậy.

Không có gì có thể phá hoại được gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì mỗi lóng đốt trong toàn thân đều có sức lực na la diên vậy. Nói sự chẳng luống hư gọi lại pháp bất cộng, tại sao, vì biết rõ tất cả căn tánh vậy.

Làm bậc Thầy của tất cả gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì thông đạt tất cả pháp vậy. Thọ mạng vô tận gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì được pháp Thân vậy. Có ai gần kề đều được đại lợi ích gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì đã thành tựu tất cả pháp lành vậy.

Tất cả trí huệ của Phật có không gì làm loạn trược được gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì biết rõ Tam Thế trí tánh thanh tịnh vậy. Ai làm thân Phật chảy máu thì mắc tội ngũ nghịch gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì đã thành tựu tất cả thiện căn vậy.

Tất cả tập khí phiền não hết sạch gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì biết rõ nhân của tất cả phiền não vậy. Biết rõ tất cả hành gọi là pháp bất cộng, tại sao, vì giác ngộ tất cả pháp vậy.

Này Bảo Nữ! Đây gọi là những pháp bất cộng của Như Lai.

Bảo Nữ lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đức Phật có ba mươi hai tướng, đây là do nghiệp nhân gì mà thành tựu?

Đức Phật phán dạy: Như Lai thành tựu vô lượng công đức nên có ba mươi hai tướng. Đức Phật sẽ ở trong vô lượng sự ấy mà nói lược.

Đức Như Lai, lúc tu hành đạo bồ đề, do chí tâm hộ trì tịnh giới nên được tướng lòng bàn chân bằng phẳng, do làm các thứ nghiệp huệ trí nên được tướng thiên bức luân, do chẳng khi dối tất cả chúng sanh nên được tướng bắp chân gót mắt cá tròn đầy, do thủ hộ chánh pháp nên được tướng ngón thon dài, do chẳng phá chúng của người nên được tướng màn lưới mỏng.

Do dâng thí y phục đẹp quí nên được tướng chân tay dịu mềm, do dâng thí món ăn uống sạch ngon nên được tướng bảy chỗ trên thân đầy, do mừng nghe Phật Pháp nên được tướng vế lộc vương, do che giấu lỗi của người khác nên được tướng mã vương âm tàng, do tu pháp lành nên được tướng phần thân trên như sư tử vương.

Do thường đem pháp lành giáo hóa chúng sanh nên được tướng chỗ xương lõm đều đầy bằng, do cứu hộ kẻ tai nạn kinh sợ nên được tướng cánh bắp tay cùi chỏ đều suông tròn, do thấy sự việc của người thì giúp đỡ nên được tướng tay chạm đầu gối, do thường tu mười nghiệp lành nên được tướng thân thanh tịnh, do bố thí thuốc tốt cho người bệnh nên được tướng món ăn món uống vào đến cổ họng đều biến thành thượng vị.

Do thường phát nguyện tu hành thiện pháp nên được tướng má như sư tử vương, do với tất cả chúng sanh tâm luôn bình đẳng nên được tướng đủ bốn mươi cái răng, do hòa hiệp tranh tụng nên được tướng răng khít kín, do dâng thí các thứ trân bảo nên được tướng răng đều bằng, do thân khẩu ý thanh tịnh nên được tướng răng nanh trắng bóng.

Do giữ gìn bốn lỗi nơi lời nói nên được tướng lưỡi rộng dài, do thành tựu vô lượng công đức nên được tướng vị ngon nhất trong thượng vị, do thường nói lời dịu dàng nên được tướng phạm âm, do tu tập từ tâm nên được tướng tròng mắt biếc, do chí tâm cầu vô thượng bồ đề nên được tướng lông nheo như ngưu vương, do tán thán những công đức của người khác nên được tướng bạch hào.

Do cung kính các bậc cha mẹ Sư Trưởng Hòa Thượng nên được tướng nhục kế, do thích nói pháp thậm thâm nên được tướng thân nhu nhuyến, do dâng thí những thứ trải giường ghế nên được tướng kim quang, do xa lìa hội họp nói chuyện thế gian nên được tướng mỗi mỗi lỗ lông đều có một lông mọc.

Do thích nhận lời dạy của các bậc Sư Trưởng thiện hữu nên lông trên thân đều hướng lên trên, do chẳng đem việc xấu ác vu cho người nên được tướng tóc màu vàng ròng, do thường khuyên chúng sanh tu tam muội nên được tướng thân viên mãn như thân cây Ni Câu Đà, do đời đời làm tượng hình Phật nên được tướng sức lực Na La Diên.

Này Bảo Nữ! Đại Bồ Tát vì thành tựu vô lượng công đức như vậy nên được ba mươi hai tướng ấy.

Bảo Nữ lại bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát thiệt là bất khả tư nghị.

Lành thay Đức Thế Tôn nói rất tốt về Phật Pháp.

Đức Phật phán dạy: Này Bảo Nữ! Đúng như lời ngươi nói. Tất cả chúng sanh nghe những nghĩa này thì được vô lượng công đức, nghe rồi mà tin thì cũng được vô lượng công đức.

Lúc Đức Phật nói pháp này, mười phương vô lượng vô biên Thế Giới chấn động sáu cách, vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề, năm ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, trên hư không Chư Thiên mưa các thứ hoa trời cùng trỗi các loại kỹ nhạc trời để cúng dường Đức Phật.

Những chúng sanh nào đã ở chỗ vô lượng vô biên Chư Phật vun trồng căn lành mới được nghe thập lực tứ vô sở úy thập bát bất cộng pháp và tam thập nhị tướng của Như Lai. Người ấy nghe rồi có thể sanh lòng tin sâu, tin rồi có thể ở giữa đại chúng làm sư tử hống mà diễn nói pháp này.

Tại sao vậy, vì những hạng người hạ liệt thì chẳng được nghe, dầu được nghe họ cũng vì tất sanh lòng tin, bậc thượng nhân trì giới trí huệ đầy đủ mới có thể được nghe, nghe rồi kính tin, tin rồi không lâu sẽ được vô thượng bồ đề.

Bảo Nữ bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Phật Như Lai bất khả tư nghị, Pháp và Tăng cũng bất khả tư nghị, nghe và tín Kinh này cũng bất khả tư nghị, nếu có người kính tin Kinh này, thì người ấy quyết định được vô thượng bồ đề.

Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát tu hành pháp hạnh?

Đức Phật phán dạy: Này Bảo Nữ! Đại Bồ Tát chẳng bỏ hàng thân thuộc bạn bè, biết ơn báo ơn, thương xót tất cả, nếu có ai quy y thì trọn không vứt bỏ, chí tâm nhớ nghĩ đạo bồ đề, tu hạnh nhẫn nhục, hay xả thí vật khó xả thí, nhiếp lấy chúng sanh, từ tâm hộ trì tịnh giới, tư duy nghĩa ý pháp hành, hộ trì chánh pháp, thích chánh pháp, nhớ chánh pháp, thọ trì chánh pháp, thích tịch tĩnh ở riêng chỗ rảnh rang vắng vẻ, với đạo bồ đề lòng không thối không hối.

Khéo thủ hộ chúng sanh thanh tịnh thân khẩu ý, vì tứ vô lượng tâm mà phát đại nguyện, thường khuyên bảo chúng sanh hướng về đạo bồ đề, lúc giảng thuyết luận bàn thì trước tán thán đại thừa, chẳng có trước hứa hẹn người mà sau sanh lòng hối.

Thanh tịnh phẩm hạnh tri túc thiểu dục chẳng xan chẳng đố chẳng dứt thánh chủng, tâm không hề tranh cãi, biết rõ nhân quả, có đủ tin văn giới thí tàm quí và trí huệ, gần kề thiện hữu, thuận theo lời dạy của bậc Sư Trưởng, tâm không kiêu mạn, cung kính lễ lạy các bậc Trưởng Lão có đức, rời lìa tham sân si ngã và ngã sở, thường niệm Phật Pháp Tăng thí giới và Chư Thiên.

Lúc được cung kính cúng dường tâm không cao ngạo, thường siêng tu hành sáu Ba la mật, ba môn giải thoát và các thiện phương tiện, chẳng thấy các tướng ngã thường chúng sanh thọ mạng sĩ phu, thường tu tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo, đây gọi là Bồ Tát tu hành pháp hạnh.

Lại Bồ Tát pháp hành là không có nhãn không có sắc không có sắc tưởng hành, không có nhĩ không có thanh không có thanh tưởng hành, không có tỷ không có hương không có hương tưởng hành, không có thiệt không có vị không có vị tưởng hành, không có thân không có xúc không có xúc tưởng hành, không có ý không có pháp không có pháp tưởng hành.

Lại nữa, chẳng phải sắc hành chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc hành, chẳng phải sắc khổ hành chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc khổ hành, chẳng phải sắc ngã hành chẳng phải chẳng sắc ngã hành, chẳng phải sắc không hành chẳng phải chẳng sắc không hành.

Chẳng phải sắc vô tướng hành, chẳng phải sắc vô nguyện hành, chẳng phải sắc vô tá chành, chẳng phải sắc tánh hành, chẳng phải sắc thiệt hành, chẳng phải sắc tịch tĩnh hành, chẳng phải sắc sanh hành, chẳng phải sắc xuất hành, chẳng phải sắc nhân duyên hành, chẳng phải sắc tụ hành, đây gọi là pháp hành. Như với sắc, với thọ với tưởng với hành và với thức cũng như vậy.

Này Bảo Nữ! Nếu không có ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới hành như vậy thì gọi là pháp hành.

Không có Dục Giới hành, không có Sắc Giới hành, không có Vô Sắc Giới hành, không có an trụ không có giải thoát thì gọi là pháp hành.

Không có khứ không có lai, không có trụ xứ, không có tâm ý thức, không có kiến văn không có tri thức, không có thân khẩu ý nghiệp, chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp, chẳng phải nhất chẳng phải nhị, chẳng phải quá khứ vị lai hiện tại, chẳng phải cấu tịnh, chẳng phải tụ tán, chẳng phải ngã chúng sanh thọ mạng sĩ phu, chẳng phải đoạn thường, chẳng phải ngã ngã sở.

Chẳng phải thỉ chung, đây gọi là pháp hành, gọi là ngã pháp, gọi là trụ xứ, gọi là pháp tánh, gọi là pháp xứ, gọi là không xứ phi xứ, gọi là cứu cánh xứ, chẳng động chẳng trụ không có tướng dạng hình mạo, không xuất không diệt không có tu hành, không thủ không xả, không lãnh thọ không xả thí. Nếu có thể thấy biết các pháp như vậy thì gọi là chơn trí, là thiệt tri, là pháp tri.

Nấy Bảo Nữ! Nếu thấy Bồ Tát học được như vậy, vì các chúng sanh mà đi trong sanh tử, với Niết Bàn không có động chuyển, đây gọi là Bồ Tát chân thật pháp hành.

Lúc Đức Thế Tôn nói pháp này, trong Pháp Hội có tám ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần