Phật Thuyết Kinh Thiên Tử Thương Chủ Thưa Hỏi - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT KINH

THIÊN TỬ THƯƠNG CHỦ THƯA HỎI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẦN HAI  

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi!

Thế nào là Bồ Tát tạo các phương tiện thiện xảo?

Đáp: Này Thiên Tử! Nếu thấy tâm bồ đề cũng như thấy các chúng sinh, Bồ Tát như vậy gọi là tạo các phương tiện thiện xảo.

Khi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi giảng nói pháp này thì trong đại chúng có một vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm bồ đề, năm trăm Bồ Tát đạt được pháp nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Này Văn Thù Sư Lợi! Lành thay, lành thay! Vì các Bồ Tát mà khéo giảng nói pháp này. Đúng vậy, đúng vậy, ông có thể vì các bậc trượng phu thiện thắng kia mà thuyết giảng các công đức lớn như thế, ngoài ra còn có vô lượng vô số các công đức khác.

Bấy giờ, Thiên Tử Thương Chủ hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Từ xa xưa Bồ Tát đã từng cúng dường bao nhiêu Đức Phật mà đạt được biện tài như vậy?

Đáp: Này Thiên Tử! Ví như tâm suy nghĩ của người biến hóa dứt trừ mọi hình tướng.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Biến hóa thì không có tâm suy nghĩ, huống nữa lại chẳng phải là biến hóa?

Đáp: Này Thiên Tử! Thể tướng của các Đức Phật Như Lai là như vậy. Thể tướng ấy như thế thì sự cúng dường của tôi cũng như thế.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát đã thực hành Bố thí Ba La Mật trong bao lâu?

Đáp: Này Thiên Tử! Cũng như chỗ biến hóa của Đức Như Lai.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Tôi vừa hỏi Bồ Tát đã thực hành bố thí Ba La Mật được bao lâu, vì sao hôm nay Bồ Tát lại đáp như vậy?

Đáp: Này Thiên Tử! Điều đó không thể giải đáp, nên tôi trả lời như thế.

Văn Thù Sư Lợi nói: Tướng của sự biến hóa là như vậy thì làm sao có thể giải đáp là tôi đã thực hành bố thí Ba la mật trong bao lâu.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Như vậy thì tôi sẽ nghĩ là Ngài tham tiếc sao?

Đáp: Này Thiên Tử! Tôi thật sự là tham tiếc.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do nhân duyên gì mà Ngài nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Nếu tâm không xả bỏ, đó gọi là tham tiếc.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Vì sao không xả bỏ được gọi là tham tiếc?

Đáp: Này Thiên Tử! Tôi thường không xả bỏ Phật, Pháp, Tăng, cũng không xả bỏ tất cả chúng sinh. Do nghĩa này nến gọi tôi là tham tiếc.

Như tôi suy nghĩ kỹ theo chỗ nói của Ngài thì hiện tại đấy cũng là phá giới?

Đáp: Này Thiên Tử! Tôi cũng là phá giới.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do nhân duyên gì mà nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Nếu người phá giới thì lẽ nào không bị đọa vào ba đường ác sao?

Đáp: Đúng như lời Phật dạy.

Văn Thù Sư Lợi nói: Này Thiên Tử! Tôi luôn suy nghĩ nên đi vào ba đường ác để tạo sự thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Do nghĩa ấy nên gọi tôi là phá giới.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát đâu phải là không có tâm sân giận?

Đáp: Đúng vậy, Thiên Tử.

Do nhân duyên gì mà nói như thế?

Đáp: Lẽ nào không do tâm sân giận mà dứt mọi ái niệm sao?

Đáp: Đúng vậy!

Văn Thù Sư Lợi nói: Này Thiên Tử! Vì thế tôi đối với các thứ phiền não, cũng như đối với hàng Nhị Thừa không có ái niệm. Do ý nghĩa này nên tôi có giận dữ.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Nay Bồ Tát thật sự có tâm biếng nhác chăng?

Đáp: Đúng vậy! Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Vì nhân duyên gì mà nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Phàm là người biếng nhác thì không dùng thân, miệng, ý để phát khởi, tu tập các hành. Nay tôi như thế là cũng không phế bỏ các hành, cũng không ham thích các hành, không bỏ, không chấp lấy. Do ý nghĩa này nên gọi tôi là biếng nhác.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát thật sự có tâm tán loạn chăng?

Đáp: Đúng thế! Vì nhân duyên gì mà nói như vậy?

Đáp: Này Thiên Tử! Phàm là người biếng trễ thì không có nơi chốn an trụ, điều đó cũng có thể gọi là tâm tán loạn.

Này Thiên Tử! Tôi ở trong Cõi Thánh tâm đã được giải thoát, thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh, nên không có nơi chốn an trụ. Vì ý nghĩa ấy nên gọi tôi là tán loạn.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Theo như hiện tại thì Bồ Tát là không có trí sao?

Đáp: Đúng vậy, Thiên Tử. 

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do ý nghĩa gì mà Bồ Tát nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Ông lẽ nào chẳng do không có trí tuệ, nên không sợ sinh tử, không sợ phiền não, cùng với chúng sinh mê lầm, tạo sự vui sướng sao?

Đáp: Đúng vậy, thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi!

Văn Thù Sư Lợi lại nói: Tôi ở trong sinh tử với các thứ phiền não mà không hề sợ hãi, cùng với chúng sinh mê lầm an trụ một chốn, cùng với họ vui thích, vì đạt được mọi thành tựu đầy đủ cho nên gọi tôi là không có trí tuệ.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Hiện tại Bồ Tát là chẳng phải ruộng phước của thế gian sao?

Đáp: Đúng là ruộng phước giết hại. 

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do nghĩa gì mà nhân giả nói như vậy?

Đáp: Này Thiên Tử! Phàm nên giết hại đó là tham dục, giận dữ, ngu si. Nếu có thể giết hại những thứ ấy thì đó chính là ruộng phước lớn.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Chúng sinh ở thế gian, nêu nghe những lời giảng nói của Ngài sẽ sinh nhiều sợ hãi sao?

Đáp: Này Thiên Tử! Nếu sợ hãi thật tế, tức là cũng sinh ra sợ hãi thế gian.

Vì sao?

Vì tất cả thế gian không lìa thật tê mà trụ nơi thật tế.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người chê bai chỗ giảng nói của Bồ Tát thì họ sẽ hướng đến đâu?

Đáp: Này Thiên Tử! Sẽ hướng đến Niết Bàn.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do nhân duyên gì mà nhân giả nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Tất cả các pháp đều không thực có, nên lời nói hủy báng cũng không thực có, mà có thể đạt đến nẻo giải thoát của bậc Thánh.

Vì sao?

Vì trong Thánh Đạo không có danh tự, câu chương, ngôn ngữ để có thể nêu bày, chỉ dẫn. Nếu người không tin thì không thể đạt được giải thoát.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát nói như thế?

Đáp: Này Thiên Tử! Chẳng thể đã đạt được giải thoát lại được giải thoát lần nữa.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Người phỉ báng chánh pháp lẽ nào không bị đọa vào địa ngục sao?

Đáp: Này Thiên Tử! Phàm là giải thoát thì tất cả đều không còn phiền não.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát đã giảng nói giáo pháp đều không có sự hỗ trợ chăng?

Đáp: Này Thiên Tử! Đối với pháp không, vô tướng, vô nguyện thì đều không thể hỗ trợ.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Phàm là hành không thì phải hành ở chỗ nào?

Đáp: Này Thiên Tử! Hành không tức là hành từ bi đối với tất cả chúng sinh.

Vì sao?

Vì hành không thì không xa lìa hết thảy các chúng sinh.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là Bồ Tát đạt đến biên giới tận cùng của các chúng sinh?

Đáp: Này Thiên Tử! Nếu thấy rõ các pháp từ do nhân duyên sinh, cũng không rơi vào trong hai nẻo chấp thường, đoạn. Do vì nghĩa này, Bồ Tát được gọi là đạt đến biên giới tận cùng của chúng sinh.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Cảnh giới nào là cảnh giới của chúng sinh?

Đáp: Này Thiên Tử! Pháp Giới là cảnh giới của chúng sinh.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Pháp giới là cảnh giới như thế nào?

Đáp: Này Thiên Tử! Cảnh giới của tánh hư không là pháp giới.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Cảnh giới của hư không ấy là cảnh giới gì?

Đáp: Này Thiên Tử! Vượt hơn tất cả các cảnh giới, đó là cảnh giới hư không.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Cảnh giới của Chư Phật là cảnh giới như thế nào?

Đáp: Này Thiên Tử!

Cảnh giới của mắt là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy không phải là cảnh giới của nhãn thức.

Cảnh giới của tai là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng chẳng phải là cảnh giới của nhĩ thức.

Cảnh giới của mũi là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của tỷ thức.

Cảnh giới của lưỡi là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của thiệt thức.

Cảnh giới của thân là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy không phải là cảnh giới thân thức.

Cảnh giới của ý là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của ý thức.

Cảnh giới của sắc là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của sắc.

Cảnh giới của thọ là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của thọ.

Cảnh giới của tưởng là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của quán.

Cảnh giới của các hành là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của tạo tác.

Cảnh giới của các thức là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của nhận thức.

Cảnh giới của vô minh là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của nhân duyên… cho đến cảnh giới của lão tử là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là những cảnh giới ấy.

Cảnh giới của dục hành là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy không phải là cảnh giới của dục hành.

Cảnh giới của Cõi Sắc là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng chẳng phải là cảnh giới của sắc hành.

Cảnh giới của Cõi Vô Sắc là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không phải là cảnh giới của kiến giới.

Cảnh giới của pháp hữu vi là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng chẳng phải là hai cảnh giới.

Cảnh giới của pháp vô vi là cảnh giới của Phật, nhưng cảnh giới của Phật ấy cũng không xa lìa cảnh giới của ba tướng.

Này Thiên Tử! Đây là cảnh giới của Chư Phật, cảnh giới hiện có, cảnh giới hội nhập vào tất cả, cảnh giới vô biên là cảnh giới của Phật.

Này Thiên Tử! Đại Bồ Tát vào cảnh giới này rồi thì hành hóa tạo được sự lợi ích. Trong cảnh giới của tất cả chúng sinh cũng lại chẳng sinh.

Trong cảnh giới của ma thì Bồ Tát phải nên nhận biết rõ. Cảnh giới của ma và cảnh giới của Phật là bình đẳng, không hai, không có phân chia cảnh giới khác.

Này Thiên Tử! Đây chính là thần thông nơi đại trí của Bồ Tát. Nếu có thể vượt hơn cảnh giới bình đẳng thì đem cảnh giới bình đẳng ấy để tạo mọi thành tựu cho chúng sinh.

Này Thiên Tử! Trong ấy những gì là bình đẳng, những gì là không bình đẳng.

Tất cả pháp là vắng lặng bình đẳng, nên gọi là bình đẳng. Bồ Tát nếu hội nhập vào pháp vắng lặng, bình đẳng thì trụ nơi pháp không bình đẳng. Nếu Bồ Tát đã thành tựu đầy đủ các pháp bình đẳng ấy thì ở trong pháp không cũng chẳng dời chuyển.

Tất cả các pháp là vô tướng nên gọi là bình đẳng. Nếu Bồ Tát không hội nhập vào pháp vô tướng, bình đẳng thì trụ vào chỗ không bình đẳng. Nếu Bồ Tát thành tựu các pháp bình đẳng ấy rồi thì ở trong pháp vô tướng không dời chuyển.

Tất cả các pháp là vô nguyện nên gọi là bình đẳng. Nếu Bồ Tát không hội nhập vào pháp vô nguyện, bình đẳng thì trụ vào chỗ không bình đẳng. Bồ Tát thành tựu đầy đủ các pháp bình đẳng ấy rồi thì ở trong pháp vô nguyện cũng không dời chuyển.

Tất cả các pháp là vô tác nên bình đẳng, nếu Bồ Tát không hội nhập vào pháp vô tác, bình đẳng thì trụ vào chỗ không bình đẳng. Bồ Tát thành tựu đầy đủ các pháp bình đẳng ấy rồi thì ở trong pháp vô tác cũng không chuyển đổi.

Tất cả các pháp là chẳng sinh, chẳng phát sinh bình đẳng, nên gọi là bình đẳng. Xa lìa dục, riêng hành bình đẳng nên gọi là bình đẳng, không có vật nào có thể diệt.

Niết Bàn là bình đẳng nên gọi là bình đẳng. Nếu Bồ Tát không hội nhập vào nẻo bình đẳng ấy thì còn trụ nơi pháp không bình đẳng. Bồ Tát thành tựu đầy đủ các pháp bình đẳng ấy thì ở trong pháp Niết Bàn cũng không dời chuyển.

Này Thiên Tử! Hành bình đẳng, không bình đẳng như vậy mà Bồ Tát hội nhập vào đó, gọi là thực hành hạnh Bồ Tát.

Bấy giờ, Thiên Tử Thương Chủ lại hỏi Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Hôm nay Ngài đã giảng, thế nào là hạnh của Bồ Tát?

Văn Thù Sư Lợi đáp: Này Thiên Tử! Hạnh của Bồ Tát là không thể nghĩ bàn.

Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là hạnh của Bồ Tát là không thể nghĩ bàn?

Đáp: Này Thiên Tử! Tham dục là chẳng thể nghĩ bàn. Hạnh của Bồ Tát cũng không xa lìa hành tham dục.

Hành theo sự giận dữ là không thể nghĩ bàn, hạnh của Bồ Tát cũng không xa lìa hành giận dữ.

Hành theo ngu si là chẳng thể nghĩ bàn, nên hạnh của Bồ Tát cũng thực hành theo trí tuệ.

Hành chẳng ganh ghét là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ đến bố thí.

Hành xa lìa việc phá giới là hạnh của Bồ Tát, không nhớ nghĩ về hành trì giới.

Hành không giận dữ hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành nhẫn nhục.

Hành chẳng biếng nhác là hạnh của Bồ Tát, cũng chẳng nhớ nghĩ về hành tinh tấn.

Hành không tán loạn là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành thiền định.

Hành chẳng phải là không có trí là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành trí tuệ.

Hành theo không não hại là hạnh của Bồ Tát, cũng không nhớ nghĩ về hành xa lìa phiền não.

Hành không từ là hạnh của Bồ Tát, vì bố thí các sự vật bên trong.

Hành không bi là hạnh của Bồ Tát, vì bố thí vợ con: nam, nữ.

Hành không vui thích là hạnh của Bồ Tát, vì tác động của các dục là không nhàm chán.

Hành thường không giận dữ là hạnh của Bồ Tát, vì tích tập các căn lành.

Hành không xả bỏ là hạnh của Bồ Tát, vì xả bỏ thân mạng.

Hành không luyến tiếc là hạnh của Bồ Tát, vì xả bỏ mọi sự thương ghét.

Hành không sợ hãi là hạnh của Bồ Tát, vì không gần gũi với hành phiền não, sinh tử.

Hành theo trách nhiệm lớn là hạnh của Bồ Tát, vì có trách nhiệm lớn đối với tất cả chúng sinh.

Hành không bức bách là hạnh của Bồ Tát vì từ xa xưa đã phát nguyện cứu độ chúng sinh.

Hành không hối tiếc là hạnh của Bồ Tát, vì không hối hận thoái chuyển.

Hành tối thượng là hạnh của Bồ Tát, vì tất cả đều tối thượng, tối thắng.

Hành mặc áo giáp Kim Cang là hạnh của Bồ Tát, vì khéo lập thệ nguyện luôn được đầy đủ.

Hành theo tự tâm vắng lặng là hạnh của Bồ Tát, vì tâm của tất cả chúng sinh đều vắng lặng.

Hành không lỗi lầm là hạnh của Bồ Tát, vì sự tạo nghiệp không lỗi lầm.

Hành không dấy khởi sự phân biệt là hạnh của Bồ Tát, vì tâm của hết thảy chúng sinh đều bình đẳng.

Hành dũng mãnh là hạnh của Bồ Tát, vì để hàng phục bao thứ oán địch.

Hành không xen tạp là hạnh của Bồ Tát, vì tùy thuận với bạn bè thiền định.

Hành vui vẻ là hạnh của Bồ Tát, vì đối với tất cả các việc xấu ác đều khiến hoan hỷ.

Hành hết sức vui mừng là hạnh của Bồ Tát, vì luôn được hoan hỷ thấy Phật, nghe Pháp, phụng sự Tăng.

Hành trang nghiêm là hạnh của Bồ Tát, vì dùng thân, khẩu, ý để trang nghiêm Cõi Phật.

Hành không bị hàng phục là hạnh của Bồ Tát, vì mọi lợi ích hỗ trợ đều bình đẳng.

Hành không chê bai là hạnh của Bồ Tát, vì được hàng trí thức khen ngợi.

Hành không bức bách là hạnh của Bồ Tát, vì quán xét đúng đắn các phiền não.

Hành theo hàng trượng phu hiền thiện là hạnh của Bồ Tát, vì gánh vác trọng trách, nhằm đạt đến giải thoát.

Hành tạo lợi ích là hạnh của Bồ Tát, vì luôn tinh tấn, vững chắc, không biếng nhác thoái lui.

Hành đúng theo pháp là hạnh của Bồ Tát, vì khéo tu tập các pháp trợ đạo.

Hành biết ân và báo ân là hạnh của Bồ Tát, vì chẳng đoạn trừ chủng tánh của Phật.

Hành theo những điều quý báu là hạnh của Bồ Tát, vì luôn tán dương sự giảng nói về Tam Bảo.

Hành theo phương tiện trí tuệ là hạnh của Bồ Tát, vì không đoạn trừ các nhiếp pháp.

Khi giảng nói hạnh của Bồ Tát thì có năm trăm Bồ Tát hội nhập vào hạnh của Bồ Tát, đạt được pháp nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Thiên Tử Thương Chủ lại bạch Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: Thưa Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi! Ngài thật khéo giảng nói các hạnh của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát nào không xa lìa hạnh này thì các vị ấy được Đức Phật thọ ký.

Lúc ấy, Đức Phật bảo Thiên Tử Thương Chủ: Đúng vậy, đúng vậy, đúng như lời ông nói!

Này Thiên Tử! Như Lai vào thuở xa xưa đã không xa lìa những hạnh này, nên được Đức Phật Nhiên Đăng thọ ký thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, lúc ấy, ta đã chứng được pháp nhẫn vô sinh.

Này Thiên Tử! Đây là hạnh thần thông đại trí của Chư Phật và Bồ Tát.

Thiên Tử Thương Chủ thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Vô sinh là thế nào?

Ở bên trong, bên ngoài của những pháp nào gọi là đạt được vô sinh?

Đáp: Này Thiên Tử! Vô sinh là vốn tự chẳng sinh. Tướng của chỗ tận cùng chính là nghĩa vô sinh. Tướng ấy trước chẳng sinh thì sau cũng không sinh, mà đối với vô sinh thì vốn không có chỗ sinh.

Nhưng vô sinh ấy, trước đã không có nơi sinh thì sau cũng chẳng có chỗ sinh. Vì tự tánh xưa nay vốn không có nơi chôn phát sinh. Do nghĩa này nên trước không có nơi sinh thì về sau cũng không có chôn dấy khởi.

Vì tự tánh xưa nay là không có nơi chôn xuất sinh. Vô sinh ấy trước đã không thể tạo tác, do đó về sau cũng không thể tạo tác, vì tự tánh xưa nay là không thể tạo tác. Vô sinh ấy trước đã không có, nên đôi với sau cũng lại không có, tức rốt ráo là không có.

Vô sinh ấy từ trước đã không đi vào cõi luân hồi, do đó về sau cũng không bị lệ thuộc vào luân hồi, vì bản tánh là không. Vô sinh ấy trước là vô tướng, không thể nêu ra, không thể chỉ bày, vì thế về sau cũng không có tướng để có thể nêu bày, chỉ dẫn.

Như vậy là các pháp vốn không có tướng. Nếu người hiểu biết được như vậy thì cũng không khởi tâm phá bỏ sự lãnh hội kia, do ý nghĩa này nên gọi là vô sinh.

Thiên Tử hỏi: Thế nào gọi là nhẫn?

Vô sinh như thế, tất cả chúng sinh đều thọ nhận như thế nên gọi là nhẫn. Vô sinh như thế, đối với hết thảy các cõi đều thọ nhận như vậy, nên gọi là nhẫn. Vô sinh như thế, đối với các bậc Hữu Học, Vô Học, Bích Chi Phật đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn.

Vô sinh như thế, đối với tất cả pháp phật, tất cả hành của Bồ Tát, hết thảy Chư Phật đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn. Vô sinh như vậy, đối với tất cả các pháp đều có thể thọ nhận, nên gọi là nhẫn.

Nhưng vô thì do đâu gọi là vô?

Vì vô của vô nên gọi là vô, là không của không nên gọi là vô. Là vô tướng của vô tướng nên gọi là vô.

Như không, vô tướng, không tướng nên là vô. Nếu pháp là vô tức không duyên hợp, nếu không duyên hợp tức là vô dục, nếu vô dục tức là chân tánh, nếu là chân tánh tức gọi là vô tánh.

Tất cả các pháp là vô, là không có duyên hợp, xa lìa hư vọng. Nếu đốì với tất cả pháp mà thọ nhận như vậy thì gọi là nhẫn, nhẫn đó cũng là không.

Do nhẫn là không nên, không có ngã bình đẳng như vậy nên Bồ Tát sẽ được thọ ký chứng đắc pháp nhẫn vô sinh. Như pháp nhẫn ây cũng không thể nhận biết, thủ đắc.

Trong ấy, thủ đắc có nghĩa là gì?

Hoặc là ngã, hoặc là nhẫn, cả hai đều thủ đắc, thì gọi là thủ đắc. Hoặc chúng sinh, hoặc thọ mạng, hoặc người được nuôi dưỡng, hoặc nhẫn, nếu nhận biết tất cả thì gọi là thủ đắc.

Thế nào là không thủ đắc về nhẫn, đạt được chỗ chân thật của tự tánh?

Đối với chân tánh ấy của nhẫn, theo ý nghĩa đó, không chấp giữ chủ thể và đối tượng, cả hai đều chứng nhập, gọi là không thủ đắc.

Lược nói về ấm, giới, các nhập, đối với tất cả các pháp hiện có nhận biết bản tánh nên gọi là tánh không. Nếu là tánh không tức là vô vi, như tánh của vô vi.

Phàm có chỗ tạo tác thì cũng như tánh ấy. Nếu đối với bản tánh không thấy có chủ thể và đối tượng, thì chỗ chứng biết như vậy gọi là không thủ đắc.

Này Thiên Tử! Đại Bồ Tát có thể thực hành nhẫn ấy thì ở trong A tăng kỳ kiếp sẽ thành tựu đầy đủ các nhẫn như vậy. Đó là hạnh thần thông đại trí của Bồ Tát.

Lúc nêu giảng pháp nhẫn này thì tam thiên đại thiên Thế Giới đều hiện đủ sáu cách chấn động, tất cả ánh sáng chiếu khắp thế gian, trăm ngàn thứ âm nhạc chẳng tấu mà tự vang lên, từ nơi hư không mưa xuống vô số các loại hoa, có bốn vạn chúng sinh phát tâm bồ đề cầu đạo quả Vô Thượng Chánh Giác, chín vạn sáu vạn chúng sinh đạt được pháp nhẫn tùy thuận.

Do thần lực của Đức Phật và diệu lực của pháp nên khiến cho tất cả Thế Giới này hiển hiện giống như thuở xưa lúc Đức Phật Nhiên Đăng đi vào thành Liên Hoa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười, như pháp của Chư Phật có vô lượng trăm ngàn màu sắc ánh sáng từ kim khẩu của Đức Phật Thế Tôn phát ra, như các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, pha lê… chiếu đến vô lượng, vô biên thế giới, tỏa sáng khắp nơi, trở lại nhiễu quanh Đức Thế Tôn ba vòng rồi nhập vào nhục kế của Phật.

Khi ấy, Tôn Giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, quỳ gối sát đất, hướng đến Phật, chắp tay đúng như pháp, thưa hỏi:

Con hỏi Thế Tôn, bậc Đức lớn

Hỏi Phật, bậc ánh sáng trang nghiêm

Con hỏi bậc đã dứt phiền não

Vì sao Mâu Ni hiện mỉm cười?

Con hỏi Phật hàng phục ngoại đạo

Con hỏi Thế Tôn trừ các ma

Con hỏi Thế Tôn, bậc mười lực

Vì sao Mâu Ni hiện mỉm cười?

Con hỏi Thế Tôn sắc thù thắng

Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm

Khéo hay làm bậc đại hoan hỷ

Nay Thế Tôn vì sao mỉm cười?

Con hỏi biển trí, cây giác ngộ

Được trí tuệ giáo hóa thế gian

Thị hiện vô biên pháp trí tuệ

Vì sao Thế Tôn nay mỉm cười?

Danh xưng ba cõi lưu truyền khắp

Tăng trưởng ba minh, trừ ba cấu

Được ba giải thoát, chủ ba cõi

Nay mỉm cười chắc có nhân duyên?

Bậc lương y giỏi trừ sinh tử

Ngón tay, chân xoay tròn màng báu

Thân kim cương hơn Na La Diên

Mâu Ni thuyết giảng phóng hào quang.

Nay ai ở trong hạnh thanh tịnh

Hiện tại ai đầy đủ các nhẫn?

Ai sẽ tin đức của Chư Phật?

Vì thế nay Mâu Ni mỉm cười.

Không ai sánh bằng thân Thế Tôn

Đạo Sư khéo hiển bày ánh sáng

Lành thay, xin Đức Thế Tôn diễn nói

Chúng sinh nếu nghe sinh hoan hỷ.

Tôn Giả A Nan nói kệ xong, Đức Phật bảo: Này A Nan! Lúc Như Lai thuyết giảng Kinh Pháp này là gốc của các Kinh, ở trong chúng hội có bảy vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn vô sinh.

Này A Nan! Ông có thấy Thiên Tử Thương Chủ này không?

Bạch Thế Tôn, con đã thấy! Phật lại bảo Tôn Giả A Nan: Thiên Tử Thương Chủ ấy từ xưa đã từng cúng dường vô số Chư Phật, phụng hành, tôn kính, siêng cầu học, thưa hỏi nghĩa lý, khuyến thỉnh lại còn khuyến khích vô lượng chúng sinh thực hành theo đạo quả vô thượng bồ đề, khiến được an trụ chỗ thích hợp.

Này A Nan! Thiên Tử Thương Chủ ấy trải qua hai A tăng kỳ kiếp, sẽ chứng đắc đạo quả vô thượng bồ đề, hiệu là Phật Công Đức Vương Quang Minh, gồm đủ mười tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn xuất hiện ở đời. Thế Giới của Đức Phật ấy tên là thanh tịnh, kiếp tên là Vô Cấu.

Này A Nan! Thế Giới thanh tịnh ấy do bảy báu hợp thành, Cõi Phật ấy bằng phẳng như lòng bàn tay, có tám lớp lưới báu trang nghiêm rủ xuống khắp chôn.

Cõi Phật đó không có tên gọi của hàng Nhị Thừa, cũng không có các thứ ngoại đạo, các ma, không có người tạo năm thứ tội ngũ nghịch, không có người chê bai chánh pháp của Phật.

Cõi nước của Phật ấy xa lìa tám thứ nạn, tùy theo ý nghĩa trong tâm mà mọi thứ ăn uống liền hiện ra, cũng không có âm thanh nói về phá giới, các khổ hoạn.

Chúng sinh nơi Thế Giới ấy thọ nhận phước báo an lạc giống như ở cõi Trời Tha Hóa Tự Tại, thân tướng màu vàng ròng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, hầu hết được an trụ nơi đạo quả vô thượng bồ đề.

Vì thế cõi ấy có tên là thanh tịnh. Thọ mạng của Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh là một ngàn bôn mươi kiếp.

Các vị Bồ Tát nơi Cõi Nước của Đức Phật đó đều do nguyện lực, trong khoảng thời gian ấy, tùy theo tâm nguyện mà xả bỏ thọ mạng. Đức Như Lai kia có sáu mươi hai ức chúng Đại Bồ Tát.

Này A Nan! Nay có Bồ Tát phát tâm cầu đạo quả vô thượng bồ đề và đạt được pháp nhẫn vô sinh, tất cả các vị ấy đều được vãng sinh vào Cõi Nước thanh tịnh kia và còn được Đức Như Lai Công Đức Vương Quang Minh thọ ký thành tựu đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Bấy giờ, trong chúng hội có một Thiên Tử tên là Quán Tức dùng hoa Trời Mạn Đà La tung rải lên chỗ Đức Phật và thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu lúc Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh chứng đắc đạo quả vô thượng bồ đề, con nguyện sẽ ở trong Thế Giới thanh tịnh ấy làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, thường cúng dường Đức Phật và các vị Bồ Tát. Con nguyện sau đời Đức Phật ấy, sẽ thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Thiên Tử Quán Tức này vào thời Đức Phật Công Đức Vương Quang Minh chứng minh đạo quả bồ đề, thì ở trong Thế Giới đó, sẽ làm vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thiện Kiến, dùng vô lượng, vô biên, vô số phẩm vật để cúng dường Đức Phật ấy, thực hiện viên mãn pháp trợ bồ đề.

Sau Đức Phật ấy, thì Thiên Tử này sẽ xuất hiện ở đời, chứng đắc đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hiệu là Phật Phổ Quang Minh, gồm đủ mười tôn hiệu.

Này A Nan! Vua Thiện Kiến ấy, làm lễ quán đảnh cho Thái Tử xong, ở trong giáo pháp của Đức Phật kia một thời gian, rời bỏ ngôi Vua, xuất gia học đạo.

Khi Đức Như Lai kia sắp nhập Niết Bàn, thọ ký cho Bồ Tát ấy, rằng: Bồ Tát Thiện Kiến này tiếp theo sau đời ta, sẽ chứng đắc đạo quả vô thượng bồ đề.

Bấy giờ, Tôn Giả Xá Lợi Phất bảo Thiên Tử Thương Chủ: Này Thiên Tử! Như Lai đã thọ ký cho ông chăng?

Thưa Tôn Giả Xá Lợi Phất! Đức Phật thọ ký cho tôi giống như Đức Như Lai đã tạo ra người biến hóa và trao pháp thọ ký. Tánh như như nay cũng vậy, như ở đời vị lai cũng vậy, ở hiện tại cũng thế, vì như như là không tăng giảm.

Đức Thế Tôn lại bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan! Ông đã thọ lãnh pháp này, nên phụng trì giảng nói, đọc tụng, cần tăng thêm sự tu tập, vì người khác mà giảng nói rộng, để tạo nhiều lợi ích, an lạc cho họ. Cũng vì sự lợi ích an lạc của các Đại Bồ Tát ở đời hiện tại và vị lai mà thâu nhận rộng khắp.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con đã thọ nhận Kinh này.

Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì?

Chúng con sẽ phụng trì như thế nào?

Phật bảo Tôn Giả A Nan: Kinh này tên là thần thông Ưu Ba Đề Xá, ông nên theo đó mà phụng trì. Kinh này gọi là Văn Thù Sư Lợi Đồng Chân Bồ Tát Sở Thuyết, ông nên theo đấy mà phụng trì. Cũng gọi là Thương Chủ Thiên Tử Sở Vấn, ông nên theo đấy mà thọ trì.

Đức Phật giảng nói Kinh này rồi, Tôn Giả A Nan và các Tỳ Kheo khác, Thiên Tử Thương Chủ và vô lượng, vô biên, vô số, cho đến hàng ức các Thiên Tử khác, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và vô lượng A tăng kỳ Bồ Tát khác ở vô số Thế Giới khắp trong mười phương đã hội đủ.

Các Đại Bồ Tát và tất cả tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Nhân Phi Nhân, A Tu La… nghe Phật giảng nói đều hoan hỷ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần