Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba - Phẩm Tương ưng - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM BA
PHẨM TƯƠNG ƯNG
PHẦN MỘT
Lúc bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật: Bạch Thế Tôn!
Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với pháp nào, mà gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa?
Phật bảo cụ thọ Xá Lợi Tử: Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của sắc, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của nhãn xứ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của sắc xứ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của nhãn giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của sắc giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của nhãn thức giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của nhãn xúc, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của địa giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của thủy, hỏa, phong, không, thức giới, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của nhân duyên, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của các pháp do đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, và do các duyên khác sinh ra, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của vô minh, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, lo phiền, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của bố thí Ba la mật đa, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của Tịnh Giới, An Nhẫn, Tinh Tấn, Tịnh Lự, bát nhã Ba la mật đa, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái nội không, cái ngoại không, cái nội ngoại không, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác.
Cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của chơn như, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh không đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cõi hư không, cõi không thể nghĩ bàn, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của bốn niệm trụ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của khổ Thánh Đế, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của tập, diệt, đạo Thánh Đế, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của mười thiện nghiệp đạo, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của năm giới cận sự, tám giới cận trụ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của việc làm lành mang tính bố thí, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của việc làm lành mang tính giữ giới, mang tính tu hành, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của bốn tịnh lự, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của bốn vô lượng, bốn định vô sắc, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của tám giải thoát, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của pháp môn giải thoát không, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của tất cả pháp môn Đà La Ni, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của tất cả pháp môn Tam Ma Địa, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của bậc Cực Hỷ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của bậc Ly Cấu, bậc Phát Quang, bậc Diệm Tuệ, bậc Cực Nan Thắng, bậc Hiện Tiền, bậc Viễn hành, bậc Bất Động, bậc Thiện Tuệ, bậc Pháp Vân, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của năm loại mắt, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của sáu phép thần thông, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của mười lực của Phật, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của ba mươi hai tướng Đại Sĩ, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của tám mươi vẻ đẹp kèm theo, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của pháp không quên mất, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của tánh luôn luôn xả, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của trí nhất thiết, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của trí nhất thiết trí, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của việc bứng gốc vĩnh viễn tất cả phiền não, thói xấu nhiều đời, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của quả Dự Lưu, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, Độc Giác Bồ Đề, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của tất cả hạnh Đại Bồ Tát, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa. Do cùng tương ưng với cái không của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với cái không của ngã, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Do cùng tương ưng với cái không của hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sanh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với những cái không như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do khi cùng tương ưng với những cái không như vậy, chẳng thấy sắc, hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, hoặc tương ưng hoặc chẳng tương ưng.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì Đại Bồ Tát ấy, chẳng thấy sắc, là pháp sanh hoặc là pháp diệt. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức, là pháp sanh hoặc là pháp diệt. Chẳng thấy sắc là pháp nhiễm hoặc là pháp tịnh. Chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức là pháp nhiễm, hoặc là pháp tịnh.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát ấy, chẳng thấy sắc hiệp với thọ, chẳng thấy thọ hiệp với tưởng, chẳng thấy tưởng hiệp với hành, chẳng thấy hành hiệp với thức.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Không có một pháp nhỏ nhiệm nào hiệp với một pháp nhỏ nhiệm nào, vì bản tánh là không.
Vì sao vậy?
Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là sắc. Các cái không của thọ, tưởng, hành, thức, chúng chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì cái không của các sắc, nó chẳng phải là tướng biến đổi, ngăn ngại. Cái không của thọ, nó chẳng phải là tướng lãnh nạp. Cái không của các tưởng, nó chẳng phải là tướng nắm bắt hình tượng. Cái không của các hành, nó chẳng phải là tướng tạo tác. Cái không của các thức, nó chẳng phải là tướng liễu biệt.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng khác không, không chẳng khác thọ, tưởng, hành, thức. Thọ, tưởng, hành, thức tức là không, không tức là thọ, tưởng, hành, thức.
Vì sao?
Xá Lợi Tử! Vì tướng không của các pháp ấy chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Xá Lợi Tử! Như vậy, trong cái không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có địa giới, không có thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Không có nhãn xứ, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Không có sắc xứ, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Không có nhãn giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Không có sắc giới, không có thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Không có nhãn thức giới, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Không có nhãn xúc, không có nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Không có các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không có các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.
Không có sự sanh khởi của vô minh, không có sự diệt tận của vô minh. Không có sự sanh khởi của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, lo phiền. Không có sự diệt tận của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, lo phiền. Không có khổ Thánh Đế, không có tập, diệt, đạo Thánh Đế.
Không có đắc, không có hiện quán. Không có Dự Lưu, không có quả Dự Lưu, không có Nhất Lai, không có quả Nhất Lai, không có Bất Hoàn, không có quả Bất Hoàn, không có A La Hán, không có quả A La Hán, không có Độc Giác, không có quả vị Độc Giác, không có Bồ Tát, không có hạnh Bồ Tát, không có Phật, không có quả vị Phật.
Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, do cùng tương ưng với các pháp như vậy, nên gọi là cùng tương ưng với bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Các Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc. Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn xứ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc xứ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sắc giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn thức giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhãn xúc, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với địa giới, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với thủy, hỏa, phong, không, thức giới.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với nhân duyên, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên, tăng thượng duyên, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với các pháp do duyên sanh ra.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với vô minh, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, lo, phiền.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Cõi Dục, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bố thí Ba la mật đa, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cái không nội, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bổn tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không không nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với chơn như, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp giới, pháp tánh, tánh không hư vọng, tánh không đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cõi hư không, cõi không thể nghĩ bàn.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn niệm trụ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Thánh Đế khổ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Thánh Đế tập, diệt, đạo.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với mười thiện nghiệp đạo, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với năm giới cận sự, tám giới cận trụ.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính bố thí, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc làm phước mang tính giữ giới, mang tính tu hành.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn tịnh lự, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám giải thoát, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát không, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Đà La Ni, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả pháp môn Tam Ma Địa.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Bậc Cực Hỷ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với năm loại mắt, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với sáu pháp thần thông.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với mười lực của Phật, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với ba mươi hai tướng Đại Sĩ, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tám mươi vẻ đẹp kèm theo.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với pháp không quên mất, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tánh luôn luôn xả.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí nhất thiết, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng, trí nhất thiết tướng vi diệu, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với trí nhất thiết trí.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với việc bứng gốc vĩnh viễn tất cả phiền não, thói xấu nhiều đời.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả Dự Lưu, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả vị Độc Giác, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với tất cả hạnh Đại Bồ Tát, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật.
Chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với ngã, chẳng thấy tương ưng, hoặc chẳng tương ưng với hữu tình, dòng sinh mạng, sự sanh, sự dưỡng, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, người do người sinh, ngã tối thắng, khả năng làm việc, khả năng khiến người làm việc, khả năng tạo nghiệp, khả năng khiến người tạo nghiệp, tự thọ quả báo, khiến người thọ quả báo, cái biết, cái thấy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba