Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Ba Mươi - Phẩm So Sánh Công đức - Phần Năm Mươi Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM BA MƯƠI
PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
PHẦN NĂM MƯƠI BA
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói bố thí Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói bố thí Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ. Nói bố thí Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói bố thí Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu bố thí Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu bố thí Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu bố thí Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu bố thí Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu bố thí Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu bố thí Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu bố thí Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu bố thí Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tịnh giới cho đến bát nhã Ba la mật đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.
Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo.
Pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.
pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.
Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu pháp không nội hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu pháp không nội hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu pháp không nội hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu pháp không nội hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói chân như hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói chân như hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói chân như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu chân như hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu chân như hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu chân như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu chân như hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu chân như hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu chân như hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu chân như hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói Thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Nói Thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Nói Thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu Thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu Thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu Thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu Thánh đế khổ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu Thánh đế khổ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu Thánh đế khổ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu Thánh đế khổ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu Thánh đế tập, diệt, đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Nói bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ. Nói bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu bốn tịnh lự hoặc thường, hoặc vô thường, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu bốn tịnh lự hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu bốn tịnh lự hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu bốn tịnh lự hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn vô lượng, bốn định vô sắc hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Nói tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu tám giải thoát hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu tám giải thoát hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu tám giải thoát hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu tám giải thoát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Nói bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu bốn niệm trụ hoặc thường, hoặc vô thường, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu bốn niệm trụ hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu bốn niệm trụ hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu bốn niệm trụ hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Nói pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu pháp môn giải thoát không hoặc thường, hoặc vô thường, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu pháp môn giải thoát không hoặc lạc, hoặc khổ, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu pháp môn giải thoát không hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu pháp môn giải thoát không hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, nói sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Nói năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, nói sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nói năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu năm loại mắt hoặc thường, hoặc vô thường, cầu sáu phép thần thông hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu năm loại mắt hoặc lạc, hoặc khổ, cầu sáu phép thần thông hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu năm loại mắt hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu sáu phép thần thông hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu năm loại mắt hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu sáu phép thần thông hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu mười lực của Phật hoặc thường, hoặc vô thường, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu mười lực của Phật hoặc lạc, hoặc khổ, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu mười lực của Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu mười lực của Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nói tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, nói tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ. Nói pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nói pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu pháp không quên mất hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tánh luôn luôn xả hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu pháp không quên mất hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tánh luôn luôn xả hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu pháp không quên mất hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tánh luôn luôn xả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu pháp không quên mất hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tánh luôn luôn xả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Nói trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu trí nhất thiết hoặc thường, hoặc vô thường, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu trí nhất thiết hoặc lạc, hoặc khổ, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu trí nhất thiết hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu trí nhất thiết hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường, nói tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, nói tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Nói tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc thường, hoặc vô thường, cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc lạc, hoặc khổ, cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu tất cả pháp môn Đà La Ni hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu tất cả pháp môn Tam Ma Địa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, nói Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc thường, hoặc vô thường.
Nói Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, nói Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nói Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nói Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nói Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, nên cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc thường, hoặc vô thường.
Nên cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, nên cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, nên cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Nên cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, nên cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc thường, hoặc vô thường, cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc thường, hoặc vô thường.
Cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc lạc, hoặc khổ, cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc ngã, hoặc vô ngã, cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc ngã, hoặc vô ngã.
Cầu Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh, cầu Nhất Lai hướng cho đến A La Hán quả hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói tất cả quả vị Độc Giác hoặc thường, hoặc vô thường. Nói tất cả quả vị Độc Giác hoặc lạc, hoặc khổ. Nói tất cả quả vị Độc Giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nói tất cả quả vị Độc Giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc ngã, hoặc vô ngã. Cầu tất cả quả vị Độc Giác hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Nói tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nói tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Nên cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nên cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc lạc, hoặc khổ. Cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc ngã, hoặc vô ngã. Cầu tất cả hạnh Đại Bồ Tát hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… vì người phát tâm vô thượng bồ đề mà nói quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Nói quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ.
Nói quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nói quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng nương vào các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Lại nói thế này: Người tu hành tinh tấn nên cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Nên cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ.
Nên cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Nên cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh và nếu người có khả năng cầu các pháp như thế mà tu hành tinh tấn là tu hành tinh tấn Ba la mật đa.
Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân v.v… cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ.
Cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Cầu quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh như thế, để nương vào các pháp này mà tu hành tinh tấn thì ta gọi là tu hành tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
Này Kiều Thi Ca! Như trước đã nói, nên biết, đều là nói về tinh tấn Ba la mật đa hữu sở đắc tương tợ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba