Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Hai Mươi Năm - Phẩm Học Bát Nhã - Phần Sáu

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT KINH 

ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

HỘI ĐẦU  

PHẨM HAI MƯƠI NĂM

PHẨM HỌC BÁT NHÃ  

PHẦN SÁU  

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà La Ni mà học, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà học.

Vì sao?

Vì tất cả pháp môn Đà La Ni v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự Lưu mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà học.

Vì sao?

Vì Dự Lưu v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả mà học.

Vì sao?

Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác hướng, Ðộc giác quả mà học.

Vì sao?

Vì Ðộc giác v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Tam Miệu Tam Phật Đà mà học.

Vì sao?

Vì Đại Bồ Tát v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của pháp Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học.

Vì sao?

Vì pháp của Đại Bồ Tát v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát có khả năng học vô lượng, vô số, vô biên bất khả tư nghì Phật Pháp thanh tịnh thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự tăng giảm của Thanh Văn thừa mà học, chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa mà học.

Vì sao?

Vì Thanh Văn thừa v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thọ, tưởng, hành, thức mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học.

Vì sao?

Vì sắc uẩn v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học.

Vì sao?

Vì nhãn xứ v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của sắc xứ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học.

Vì sao?

Vì sắc xứ v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của nhãn giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì nhãn giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của nhĩ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì nhĩ giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của tỷ giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì tỷ giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của thiệt giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì thiệt giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của thân giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì thân giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của ý giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học.

Vì sao?

Vì ý giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của địa giới mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học.

Vì sao?

Vì địa giới v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế khổ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học.

Vì sao?

Vì Thánh đế khổ v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của vô minh mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học.

Vì sao?

Vì vô minh v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của cái không nội mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi, cái không rốt ráo.

Cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh.

Cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại cho đến cái không không tánh tự tánh mà học.

Vì sao?

Vì cái không nội v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của chân như mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không.

Cảnh giới bất tư nghì chỉ là giả mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì mà học.

Vì sao?

Vì chân như v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của bố thí Ba la mật đa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba la mật đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà học.

Vì sao?

Vì bố thí Ba la mật đa v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn tịnh lự mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học.

Vì sao?

Vì bốn tịnh lự v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của tám giải thoát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học.

Vì sao?

Vì tám giải thoát v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của bốn niệm trụ mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn cho đến tám chi Thánh đạo mà học.

Vì sao?

Vì bốn niệm trụ v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát không mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học.

Vì sao?

Vì pháp môn giải thoát không v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của năm loại mắt mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của sáu phép thần thông mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép thần thông mà học.

Vì sao?

Vì năm loại mắt v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của mười lực Phật mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ cho đến mười tám Pháp Phật bất cộng mà học.

Vì sao?

Vì mười lực của Phật v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp không quên mất mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tánh luôn luôn xả mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học.

Vì sao?

Vì pháp không quên mất v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của trí nhất thiết mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học.

Vì sao?

Vì trí nhất thiết v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Đà La Ni mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Đà La Ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tất cả pháp môn Tam Ma Địa mà học.

Vì sao?

Vì pháp môn Đà La Ni v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự Lưu mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự Lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà học.

Vì sao?

Vì Dự Lưu v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả mà học.

Vì sao?

Vì Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác hướng, Ðộc giác quả mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Ðộc giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Ðộc giác hướng, Ðộc giác quả mà học.

Vì sao?

Vì Ðộc giác v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Đại Bồ Tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Tam Miệu Tam Phật Đà mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam Miệu Tam Phật Đà mà học.

Vì sao?

Vì Đại Bồ Tát v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của pháp Đại Bồ Tát mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của quả vị giác ngộ cao tột mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp của Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học.

Vì sao?

Vì pháp của Đại Bồ Tát v.v… không có hai phần.

Kiều Thi Ca! Nếu Đại Bồ Tát chẳng vì sự tăng giảm của Thanh Văn thừa mà học không có hai phần, chẳng vì sự tăng giảm của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa mà học không có hai phần thì Đại Bồ Tát ấy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh Văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa mà học.

Vì sao?

Vì Thanh Văn thừa v.v… không có hai phần.

Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện: Này Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thọ, tưởng, hành, thức mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc xứ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhãn giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của nhĩ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tỷ giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thiệt giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thân giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của ý giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của địa giới mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của thủy, hỏa, phong, không, thức giới mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế khổ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thánh đế tập, diệt, đạo mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của vô minh mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không nội mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của cái không ngoại, cái không nội ngoại, cái không không, cái không lớn, cái không thắng nghĩa, cái không hữu vi, cái không vô vi.

Cái không rốt ráo, cái không không biên giới, cái không tản mạn, cái không không đổi khác, cái không bản tánh, cái không tự tướng, cái không cộng tướng, cái không tất cả pháp, cái không chẳng thể nắm bắt được, cái không không tánh, cái không tự tánh, cái không không tánh tự tánh mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của chân như mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bố thí Ba la mật đa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn tịnh lự mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn vô lượng, bốn định vô sắc mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám giải thoát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn niệm trụ mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát không mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của năm loại mắt mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của sáu phép Thần Thông mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của mười lực Phật mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp không quên mất mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của tánh luôn luôn xả mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí nhất thiết mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Đà La Ni mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp môn Tam Ma Địa mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự Lưu mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Dự Lưu hướng, Dự Lưu quả mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Nhất Lai hướng, Nhất Lai quả, Bất Hoàn hướng, Bất Hoàn quả, A La Hán hướng, A La Hán quả mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc Giác mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Độc Giác hướng, Độc Giác quả mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Tam Miệu Tam Phật Đà mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của pháp Đại Bồ Tát mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của quả vị giác ngộ cao tột mà học chăng?

Thiện Hiện! Khi Đại Bồ Tát học như vậy chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Thanh Văn thừa mà học, chẳng vì sự nhiếp thọ, hoại diệt của Ðộc giác thừa, vô thượng thừa mà học chăng?

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần