Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - hội đầu - Phẩm Sáu Mươi Bảy - Phẩm Pháp Nghĩa Vô Tạp
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
HỘI ĐẦU
PHẨM SÁU MƯƠI BẢY
PHẨM PHÁP NGHĨA VÔ TẠP
Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Làm sao ở trong tất cả pháp không vô tướng, tự tướng, vô tạp, có thể viên mãn tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa?
Làm sao ở trong tất cả pháp vô lậu, vô sai biệt, an lập các pháp sai biệt và có thể hiện rõ như thế?
Làm sao ở trong bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ tất cả bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Nhiếp thọ tất cả pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.
Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Nhiếp thọ tất cả chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Nhiếp thọ tất cả bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.
Nhiếp thọ tất cả pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nhiếp thọ tất cả Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Nhiếp thọ tất cả bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Nhiếp thọ tất cả pháp môn Tam Ma Địa, pháp môn Đà La Ni.
Nhiếp thọ tất cả năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nhiếp thọ tất cả mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Nhiếp thọ tất cả pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Nhiếp thọ tất cả trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Nhiếp thọ tất cả pháp thế, xuất thế?
Làm sao ở trong tất cả pháp tướng khác, an lập một tướng, gọi là vô tướng và ở trong pháp nhất tướng vô tướng, an lập các loại pháp tướng sai biệt?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa, đều vô tướng.
Vì sao?
Vì các loại mộng, tiếng vang, ảnh tượng, bóng sáng, bóng nắng, trò huyễn, ảo thành, sự biến hóa đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh là pháp không có tướng. Nếu pháp không có tướng là pháp nhất tướng, gọi là vô tướng.
Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này, nên biết tất cả sự bố thí là không tướng, người cho không tướng, người nhận không tướng, vật cho không tướng. Nếu biết như vậy mà hành bố thí, thì có thể viên mãn việc tu hành bố thí Ba la mật đa.
Nếu có thể viên mãn việc tu hành bố thí Ba la mật đa thì chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. An trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa như thế thì có thể viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc.
Cũng có thể viên mãn bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo. Cũng có thể viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện.
Cũng có thể viên mãn pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Cũng có thể viên mãn chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Cũng có thể viên mãn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Cũng có thể viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Cũng có thể viên mãn năm trăm pháp môn Tam Ma Địa, năm trăm pháp môn Đà La Ni. Cũng có thể viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Cũng có thể viên mãn mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Cũng có thể viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Cũng có thể viên mãn trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Đại Bồ Tát ấy an trụ trong các Thánh pháp vô lậu dị thục sanh như thế, dùng sức thần thông đi đến hằng hà sa Thế Giới Chư Phật khắp mười phương và dùng các loại y phục, thức ăn uống, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, tràng phan, bảo cái, đèn đuốc, kỹ nhạc và các thứ nhu yếu thượng diệu khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Chư Phật Thế Tôn, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.
Đối với người nên dùng bố thí làm lợi ích thì liền dùng bố thí mà làm lợi ích cho họ. Nên dùng tịnh giới làm lợi ích thì liền dùng tịnh giới mà làm lợi ích cho họ. Nên dùng an nhẫn làm lợi ích thì liền dùng an nhẫn mà làm lợi ích cho họ.
Nên dùng tinh tấn làm lợi ích thì liền dùng tinh tấn mà làm lợi ích cho họ. Nên dùng tịnh lự làm lợi ích thì liền dùng tịnh lự mà làm lợi ích cho họ. Nên dùng bát nhã làm lợi ích thì liền dùng bát nhã mà làm lợi ích cho họ. Nên dùng các loại thiện pháp khác làm lợi ích thì liền dùng các loại thiện pháp khác mà làm lợi ích cho họ.
Nên dùng tất cả thiện pháp thù thắng làm lợi ích thì liền dùng tất cả thiện pháp thù thắng mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ Tát ấy, thành tựu vô lượng thiện pháp như thế, tuy chịu sanh tử nhưng chẳng bị tội lỗi sanh tử làm nhiễm ô. Vì muốn lợi lạc cho các hữu tình nên nhiếp thọ phú quí tự tại của người, Trời. Do oai lực của phú quí tự tại này, có thể làm các việc lợi lạc cho hữu tình, dùng bốn nhiếp pháp mà nhiếp thọ họ.
Đại Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều không có tướng, nên tuy biết quả Dự Lưu mà chẳng trụ quả Dự Lưu, tuy biết quả Nhất Lai, mà chẳng trụ quả Nhất Lai, tuy biết quả Bất Hoàn mà chẳng trụ quả Bất Hoàn, tuy biết quả A La Hán mà chẳng trụ quả A La Hán. Tuy biết quả vị Độc giác mà chẳng trụ quả vị Độc giác.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết tất cả pháp rồi, vì muốn chứng đắc trí nhất thiết tướng, chẳng chung cùng với tất cả Thanh Văn, Độc giác.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát biết tất cả pháp đều không có tướng, nên như thật rõ biết bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa cũng đều không có tướng, như thật rõ biết các cả Phật Pháp cũng đều không có tướng. Do nhân duyên ấy, có thể viên mãn hết tất cả Phật Pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa mà viên mãn tịnh giới Ba la mật đa.
Đại Bồ Tát ấy, như thật rõ biết là năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa rồi thì có thể viên mãn tịnh giới Ba la mật đa vô tướng.
Tịnh Giới như thế không khuyết, không hở, không tỳ vết, không uế trược, không có sự thủ trước, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường được người trí khen ngợi là thọ trì hoàn hảo, cứu cánh hoàn hảo, là Thánh vô lậu, thuộc về chi đạo xuất thế gian.
An trụ giới này có thể khéo thọ trì, thọ giới đã thiết lập, giới đắc tự nhiên, giới luật nghi, giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới bất hiện hành, giới oai nghi, giới phi oai nghi.
Đại Bồ Tát ấy tuy thành tựu đầy đủ các giới như thế nhưng không thủ trước, chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh vào dòng họ lớn Sát Đế Lợi phú quí tự tại, hoặc sẽ sanh vào dòng họ lớn Bà La Môn phú quí tự tại, hoặc sẽ sanh vào dòng họ lớn Trưởng gia phú quí tự tại, hoặc sẽ sanh vào dòng họ lớn Cư Sĩ phú quí tự tại.
Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ làm tiểu vương, hoặc làm Đại Vương, hoặc làm luân vương phú quí tự tại. Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh vào chúng Trời Tứ Đại Vương, hoặc sanh Cõi Trời Ba Mươi Ba, hoặc sanh Cõi Trời Dạ Ma, hoặc sanh Cõi Trời Đổ Sử Đa, hoặc sanh Cõi Trời Lạc Biến Hóa, hoặc sanh Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại phú quí tự tại.
Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Cõi Trời Phạm Chúng, hoặc sanh Cõi Trời Phạm Phụ, hoặc sanh Cõi Trời Phạm Hội, hoặc sanh Cõi Trời Đại Phạm phú quí tự tại. Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Cõi Trời Quang, hoặc sanh Cõi Trời Thiểu Quang, hoặc sanh Cõi Trời Vô Lượng Quang, hoặc sanh Cõi Trời Cực Quang Tịnh phú quí tự tại.
Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Cõi Trời Tịnh, hoặc sanh Cõi Trời Thiểu Tịnh, hoặc sanh Cõi Trời Vô Lượng Tịnh, hoặc sanh Cõi Trời Biến Tịnh phú quí tự tại. Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Cõi Trời Quảng, hoặc sanh Cõi Trời Thiểu Quảng, hoặc sanh Cõi Trời Vô Lượng Quảng, hoặc sanh Cõi Trời Quảng Quả phú quí tự tại.
Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Cõi Trời Vô Phiền, hoặc sanh Cõi Trời Vô Nhiệt, hoặc sanh Cõi Trời Thiện Hiện, hoặc sanh Cõi Trời Thiện Kiến, hoặc sanh Cõi Trời Sắc Cứu Cánh phú quí tự tại. Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ sanh Không Vô Biên Xứ, hoặc sanh Thức Vô Biên Xứ, hoặc sanh Vô Sở Hữu Xứ, hoặc sanh Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ phú quí tự tại.
Chẳng nghĩ thế này, ta do giới này sẽ đắc quả Dự Lưu, hoặc đắc quả Nhất Lai, hoặc đắc quả Bất Hoàn, hoặc đắc quả A La Hán, hoặc đắc quả vị Độc giác. Hoặc nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, hoặc đắc vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát, hoặc đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Vì sao?
Vì các pháp này đều vô tướng, hoặc đồng một tướng gọi là vô tướng. Pháp vô tướng chẳng đắc vô tướng, pháp hữu tướng chẳng đắc hữu tướng, pháp vô tướng chẳng đắc hữu tướng, pháp hữu tướng chẳng đắc vô tướng. Do nhân duyên ấy, nên hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, mau có thể viên mãn tịnh giới Ba la mật đa vô tướng, chứng nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát. Đã nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát lại đắc vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát.
Đã được vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát, tu hành trí đạo tướng hướng đến trí nhất thiết tướng, đắc năm thần thông dị thục. Lại đắc năm trăm pháp môn Tam Ma Địa, cũng đắc năm trăm pháp môn Đà La Ni.
An trụ ở trong đó lại có thể chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt. Từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật.
Đại Bồ Tát ấy vì hóa độ hữu tình, nên tuy hiện lưu chuyển sanh tử trong các thú, nhưng chẳng bị các chướng phiền não nghiệp báo ấy làm nhiễm ô. Thí như hóa nhơn tuy hiện các việc đi, đứng, nằm, ngồi, nhưng không có các việc vãng lai chân thật. Tuy hiện các thứ làm lợi ích hữu tình, nhưng đối với hữu tình và sự an lập ấy hoàn toàn không có sở đắc.
Như có Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác hiệu là Tô Phiến Đa, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân nhiệm mầu, độ vô lượng chúng sanh, khiến thoát sanh tử, chứng đắc Niết Bàn, nhưng không có hữu tình nào có thể thọ nhận sự thọ ký quả vị giác ngộ cao tột tiếp theo. Khi ấy, Như Lai đó, hóa làm hóa Phật khiến ở lâu trên đời, tự xả tuổi thọ nhập cãnh giới Vô Dư Y Niết Bàn.
Thân của hóa Phật kia, trụ một kiếp rồi, thọ ký quả vị giác ngộ cho một Bồ Tát, rồi mới nhập Niết Bàn. Hóa thân của Phật kia tuy làm các việc lợi ích cho hữu tình, nhưng không có sở đắc, đó là chẳng đắc sắc, chẳng đắc thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng đắc nhãn xứ, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng đắc sắc xứ, chẳng đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng đắc nhãn giới, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng đắc sắc giới, chẳng đắc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Chẳng đắc nhãn thức giới, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới.
Chẳng đắc nhãn xúc, chẳng đắc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng đắc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng đắc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra. Chẳng đắc tất cả pháp hữu lậu, vô lậu và hữu tình. Đại Bồ Tát ấy, cũng lại như vậy, tuy có làm việc nhưng không có sở đắc.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa viên mãn tịnh giới Ba la mật đa. Do tịnh giới Ba la mật đa này được viên mãn, nên có thể nhiếp thọ tất cả Phật Pháp.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa viên mãn an nhẫn Ba la mật đa.
Đại Bồ Tát như thật rõ biết năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa rồi có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng.
Này Thiện Hiện! Làm sao Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa rồi có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy không có thật tướng, nên tu hai loại nhẫn mới có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng.
Hai loại đó là gì?
Một là an thọ nhẫn, hai là quán sát nhẫn. An thọ nhẫn là các Đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ Đề nhiệm mầu, ở khoảng giữa, giả sử tất cả loài hữu tình tranh nhau đến chê bai, dùng lời thô ác mắng nhiếc, lăng nhục.
Lại dùng ngói, đá, dao, gậy làm hại, nhưng Đại Bồ Tát ấy, vì đã viên mãn an nhẫn Ba la mật đa, nên cho đến chẳng sanh một niệm sân hận. Cũng lại chẳng khởi tâm trả thù, chỉ nghĩ thế này, các hữu tình ấy thật đáng thương, làm tăng thêm phiền não, dấy động tâm ý họ chẳng được tự tại, đối với ta phát khởi ác nghiệp như thế. Ta nay chẳng nên sân giận họ.
Lại nghĩ thế này, do ta nhiếp thọ các uẩn oan gia, nên khiến hữu tình ấy đối với ta phát khởi ác nghiệp như thế, chỉ nên tự trách chẳng nên giận họ. Bồ Tát khi quán sát kỹ như thế, đối với hữu tình ấy sanh lòng thương xót sâu xa, các sự việc như thế gọi là an thọ nhẫn.
Quán sát nhẫn là Đại Bồ Tát nghĩ thế này: Các hành như huyễn, chẳng thật, chẳng được tự tại, cũng như hư không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, khả năng làm việc, khả năng thọ quả báo, cái biết, cái thấy đều chẳng thể nắm bắt được, chỉ là hư vọng phân biệt mà khởi, thì ai chê trách ta, ai mắng nhiếc ta, ai lăng nhục ta, ai dùng các thứ ngói, đá, dao, gậy gia hại ta, ai thọ nhận sự mắng nhiếc gia hại ấy?
Đều là tự tâm hư vọng phân biệt. Ta nay chẳng nên phát khởi chấp trước các pháp như thế, do tự tánh không, thắng nghĩa không, nên hoàn toàn không có sở hữu. Bồ Tát khi quán sát kỹ như thế, biết rõ như thật các hành tĩnh lặng, đối với tất cả pháp chẳng sanh tưởng khác.
Các việc như thế gọi là quán sát nhẫn. Đại Bồ Tát ấy, vì tu tập hai thứ nhẫn như thế, nên có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng. Do có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng nên liền đạt được vô sanh pháp nhẫn.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là vô sanh pháp nhẫn?
Pháp này đoạn gì?
Lại là trí gì?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Do thế lực này cho đến một phần nhỏ pháp ác bất thiện cũng chẳng sanh được, cho nên gọi là vô sanh pháp nhẫn. Pháp này khiến cho ngã và ngã sở, các phiền não, mạn v.v… rốt ráo tịch diệt. Như thật nhẫn thọ các pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa. Nhẫn này gọi là trí. Đắc trí này nên gọi là đạt được vô sanh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! vô sanh pháp nhẫn của Thanh Văn, Độc giác cùng với vô sanh pháp nhẫn của Đại Bồ Tát có sự sai biệt như thế nào?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Các Bậc Dự Lưu hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ Tát. Các Bậc Nhất Lai hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ Tát, các Bậc Bất Hoàn hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ Tát, các Bậc A La Hán hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ Tát, các Bậc Độc giác hoặc trí, hoặc đoạn cũng gọi là nhẫn của Đại Bồ Tát. Lại có nhẫn của Đại Bồ Tát gọi là các pháp nhẫn, rốt ráo chẳng sanh, như thế là sai biệt.
Này Thiện Hiện! Các Đại Bồ Tát vì thành tựu nhẫn thù thắng như thế, nên vượt hẳn tất cả Thanh Văn, Độc giác.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong vô sanh pháp nhẫn dị thục thù thắng như thế, hành đạo Bồ Tát, có thể viên mãn trí đạo tướng. Do có thể viên mãn trí đạo tướng, nên thường chẳng xa lìa bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy Đẳng Giác chi, tám chi Thánh đạo.
Cũng chẳng xa lìa pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Cũng chẳng xa lìa thần thông dị thục. Đại Bồ Tát ấy, do chẳng xa lìa thần thông dị thục, nên từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác, cung kính cúng dường Chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật. Đại Bồ Tát ấy, do thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật được viên mãn, nên chỉ trong khoảng một Sát na tương ưng diệu tuệ, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Này Thiện Hiện! Như vậy, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, có thể mau viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng. Vì được viên mãn an nhẫn Ba la mật đa vô tướng, nên có thể chứng đắc trí nhất thiết trí, tất cả Phật Pháp đều được viên mãn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa.
Biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa không có thật tướng rồi, phát khởi tinh tấn thân tâm dõng mãnh. Đại Bồ Tát ấy vì phát khởi tinh tấn thân dõng mãnh nên dẫn phát thần thông nhanh chóng thù thắng.
Do thần thông này nên đi đến Thế Giới khắp mười phương cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen Chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ Chư Phật, trồng các cội đức, lợi ích an lạc vô lượng hữu tình. Cũng có thể nghiêm tịnh các Cõi Phật. Đại Bồ Tát ấy, do tinh tấn thân, thành thục hữu tình, tùy theo căn cơ của họ, phương tiện an lập ở pháp ba thừa, đều khiến rốt ráo.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa do tinh tấn thân có thể mau viên mãn tinh tấn Ba la mật đa vô tướng.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, vì phát khởi tinh tấn tâm dõng mãnh nên dẫn phát đạo chi vô lậu của Chư Thánh, nhiếp thọ tinh tấn, viên mãn tinh tấn Ba la mật đa, trong đó, có thể nhiếp thọ đầy đủ các thiện pháp, đó là bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.
Pháp Môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Năm loại mắt, sáu phép thần thông.
Pháp Môn Tam Ma Địa, pháp môn Đà La Ni. Bậc Cực Hỷ, Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân.
Pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.
Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Chân như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng. Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong đó, có thể viên mãn trí nhất thiết tướng.
Do trí nhất thiết tướng được viên mãn nên vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục. Do vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí tương tục nên các tướng và vẻ đẹp phụ thuộc thành tựu viên mãn.
Do các tướng và vẻ đẹp phụ thuộc thành tựu viên mãn, nên chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, phóng đại quang minh chiếu khắp tam thiên đại thiên Thế Giới, khiến các Thế Giới sáu thứ chấn động, chuyển bánh xe chánh pháp, đầy đủ ba mươi hai tướng. Do đó, các loại hữu tình trong tam thiên đại thiên Thế Giới, nhờ hào quang chiếu đến, thấy biến động này, nghe chánh pháp âm, đối với ba thừa, được bất thối chuyển.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, viên mãn tinh tấn Ba la mật đa, an trụ tinh tấn Ba la mật đa, có thể làm xong nhiều việc lợi ích cho mình và người, có thể mau viên mãn tất cả Phật Pháp, chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, viên mãn tịnh lự Ba la mật đa.
Này Thiện Hiện! Làm sao Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa, trong năm thủ uẩn viên mãn tịnh lự Ba la mật đa?
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, như thật rõ biết năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa, không có thật tướng rồi, nhập sơ thiền và an trụ trọn vẹn, nhập đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, an trụ trọn vẹn. Nhập từ vô lượng an trụ trọn vẹn, nhập bi, hỷ, xả vô lượng an trụ trọn vẹn.
Nhập Định Không Vô Biên Xứ, an trụ trọn vẹn. Nhập Định Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ an trụ trọn vẹn. Tu Tam Ma Địa không, tu Tam Ma Địa vô tướng, vô nguyện. Tu Tam Ma Địa như điển, tu Tam Ma Địa Thánh chánh, Tam Ma Địa Kim cang dụ, an trụ trong Tam Ma Địa Kim cang dụ.
Trừ Tam Ma Địa của Như Lai ra, tất cả các Tam Ma Địa khác hoặc cùng với Tam Ma Địa Thanh Văn, hoặc cùng với Tam Ma Địa Độc giác, hoặc vô lượng Tam Ma Địa khác, tất cả như thế đều có thể thân chứng và an trụ trọn vẹn. Nhưng đối với các Tam Ma Địa như tịnh lự, vô lượng, định vô sắc v.v… chẳng sanh đắm trước, cũng chẳng đắm trước quả sở đắc của chúng.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết các Tam Ma Địa tịnh lự, vô lượng, định vô sắc v.v… và tất cả pháp đều không có thật tướng, đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng lẽ lấy pháp vô tướng đắm trước pháp vô tướng, cũng chẳng lẽ dùng vô tánh làm pháp tự tánh, đắm trước vô tánh làm pháp tự tánh.
Do chẳng đắm trước Tam Ma Địa, nên Đại Bồ Tát ấy chẳng bao giờ tùy thuận thế lực của các Tam Ma Địa tịnh lự, vô lượng, định vô sắc v.v… mà sanh vào Cõi Sắc, Vô Sắc.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả cảnh giới hoàn toàn không có sở đắc. Đối với người nhập định, định sở nhập, nhân duyên nhập cũng không có sở đắc. Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp, vì không có sở đắc, nên có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật đa vô tướng. Nhờ tịnh lự Ba la mật đa này, siêu vượt các Bậc Thanh Văn và Độc giác.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát ấy vì sao viên mãn tịnh lự Ba la mật đa vô tướng, siêu vượt các Bậc Thanh Văn, Độc giác?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, vì khéo học pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh.
Pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh, nên Đại Bồ Tát ấy, ở trong các pháp không đó, chẳng đắc tất cả pháp, mà an trụ trong đó, chẳng đắc quả Dự Lưu, chẳng đắc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc giác, chẳng đắc tất cả hạnh Đại Bồ Tát, chẳng đắc quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật.
Vì sao?
Vì các tánh không ấy cũng đều rỗng không, nên Đại Bồ Tát ấy, do an trụ pháp không này mà siêu vượt các Bậc Thanh Văn và Độc giác, chứng nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát lấy gì làm sanh, lấy gì làm ly sanh?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát dùng tất cả cái có sở đắc làm sanh, và dùng tất cả cái vô sở đắc làm ly sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát lấy gì làm hữu sở đắc, lấy gì làm vô sở đắc?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát dùng tất cả pháp làm hữu sở đắc, đó là Đại Bồ Tát lấy sắc làm hữu sở đắc, lấy thọ, tưởng, hành, thức làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy nhãn xứ làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy sắc xứ làm hữu sở đắc, lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy nhãn giới làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy sắc giới làm hữu sở đắc, lấy thanh, hương, vị, xúc, pháp giới làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy nhãn thức giới làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy nhãn xúc làm hữu sở đắc, lấy nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra làm hữu sở đắc, lấy các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy địa giới làm hữu sở đắc, lấy thủy, hỏa, phong, không, thức giới làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy nhân duyên làm hữu sở đắc, lấy đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy vô minh làm hữu sở đắc, lấy hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy bố thí Ba la mật đa làm hữu sở đắc, lấy tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy pháp không nội làm hữu sở đắc, lấy pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.
Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy bốn niệm trụ làm hữu sở đắc, lấy bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy pháp môn giải thoát không làm hữu sở đắc, lấy pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy Thánh đế khổ làm hữu sở đắc, lấy Thánh đế tập, diệt, đạo làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy bốn tịnh lự làm hữu sở đắc, lấy bốn vô lượng, bốn định vô sắc làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy tám giải thoát làm hữu sở đắc, lấy tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy tất cả pháp môn Tam Ma Địa làm hữu sở đắc, lấy tất cả pháp môn Đà La Ni làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy Bậc Cực Hỷ làm hữu sở đắc, lấy Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiền Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy năm loại mắt làm hữu sở đắc, lấy sáu phép thần thông làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy mười lực Phật làm hữu sở đắc, lấy bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy pháp không quên mất làm hữu sở đắc, lấy tánh luôn luôn xả làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy trí nhất thiết tướng làm hữu sở đắc, lấy trí đạo tướng, trí nhất thiết làm hữu sở đắc.
Đại Bồ Tát lấy quả Dự Lưu làm hữu sở đắc, lấy quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc giác làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát lấy tất cả hạnh Đại Bồ Tát làm hữu sở đắc, lấy quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật làm hữu sở đắc. Đại Bồ Tát vì lấy các hữu sở đắc như thế mà sanh khởi.
Này Thiện Hiện! Còn Vô sở đắc là Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp như thế không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đó là Đại Bồ Tát đối với sắc không hành, không đắc, không nói, không chỉ, đối với Thọ, Tưởng, Hành, Thức không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của sắc cho đến tự tánh của thức đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với nhãn xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của nhãn xứ cho đến tự tánh của ý xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với sắc xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của sắc xứ cho đến tự tánh của pháp xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với nhãn giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của nhãn giới cho đến tự tánh của ý giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với sắc giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của sắc giới cho đến tự tánh của pháp giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với nhãn thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của nhãn thức giới cho đến tự tánh của ý thức giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với nhãn xúc không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của nhãn xúc cho đến tự tánh của ý xúc đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến tự tánh của các thọ do ý xúc làm duyên sinh ra đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với địa giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với thủy, hỏa, phong, không, thức giới không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của địa giới cho đến tự tánh của thức giới đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với nhân duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của Nhân duyên cho đến tự tánh của tăng thượng duyên đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với vô minh không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của vô minh cho đến tự tánh của lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với bố thí Ba la mật đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của bố thí Ba la mật đa cho đến tự tánh của bát nhã Ba la mật đa đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với pháp không nội không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Đối với pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn.
Pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của pháp không nội cho đến tự tánh của pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với bốn niệm trụ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tự tánh của tám chi Thánh đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với pháp môn giải thoát không không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của pháp môn giải thoát không cho đến tự tánh của pháp môn giải thoát vô nguyện đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với Thánh đế khổ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với Thánh đế tập, diệt, đạo không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của Thánh đế khổ cho đến tự tánh của Thánh đế đạo đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với bốn tịnh lự không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với bốn vô lượng, bốn định vô sắc không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của bốn tịnh lự cho đến tự tánh của Bốn định vô sắc đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với tám giải thoát không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của tám giải thoát cho đến tự tánh của mười biến xứ đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp môn Tam Ma Địa không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với tất cả pháp môn Đà La Ni không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của tất cả pháp môn Tam Ma Địa, tự tánh của tất cả pháp môn Đà La Ni đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với Bậc Cực Hỷ không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của Bậc Cực Hỷ cho đến tự tánh của Bậc Pháp Vân đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với năm loại mắt không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với sáu phép thần thông không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của năm loại mắt, tự tánh của sáu phép thần thông đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với mười lực Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của mười lực Phật cho đến tự tánh của mười tám Pháp Phật bất cộng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với pháp không quên mất không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với tánh luôn luôn xả không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của pháp không quên mất, tự tánh của tánh luôn luôn xả đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với trí nhất thiết không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của trí nhất thiết cho đến tự tánh của trí nhất thiết tướng đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với quả Dự Lưu không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc giác không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của quả Dự Lưu cho đến tự tánh của quả vị Độc giác đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát đối với tất cả hạnh Đại Bồ Tát không hành, không đắc, không nói, không chỉ. Đối với quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
Vì sao?
Vì tự tánh của tất cả hạnh Đại Bồ Tát, tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật đều chẳng thể hành, đắc, nói, chỉ. Đại Bồ Tát lấy sự không hành, không đắc, không nói, không chỉ như thế làm vô sở đắc, chính cái vô sở đắc ấy gọi là ly sanh.
Này Thiện Hiện! Đó gọi là sanh và ly sanh của Đại Bồ Tát. Đại Bồ Tát chứng nhập Bậc chánh tánh ly sanh rồi, viên mãn tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Đại Bồ Tát ấy còn chẳng theo thế lực của định mà sanh, huống là theo thế lực phiền não như tham v.v…
Đại Bồ Tát ấy nếu an trụ trong đây mà tạo tác các nghiệp và do thế lực của nghiệp sanh bốn tịnh lự, lưu chuyển trong các thú là điều không có. Đại Bồ Tát ấy tuy an trụ trong các nhóm hành như huyễn, làm các điều lợi ích như thật cho các hữu tình, nhưng chẳng đắc huyễn và các hữu tình.
Đại Bồ Tát ấy khi đối với các việc vô sở đắc như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật, mau chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật đa vô tướng. Do tịnh lự Ba la mật đa mau viên mãn này, nên chóng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh. Pháp luân như thế gọi là vô sở đắc, cũng gọi là không, vô tướng, vô nguyện, có khả năng làm lợi ích vô cùng cho các hữu tình.
Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như việc biến hóa, viên mãn bát nhã Ba la mật đa.
Đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa rồi, có thể viên mãn bát nhã Ba la mật đa vô tướng.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ Tát như thật rõ biết tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như bóng sáng, như bóng nắng, như trò huyễn, như ảo thành, như sự biến hóa?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng, chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy người nghe tiếng vang, chẳng thấy ảnh tượng, chẳng thấy người thấy ảnh tượng.
Chẳng thấy bóng sáng, chẳng thấy người thấy bóng sánh, chẳng thấy bóng nắng, chẳng thấy người thấy bóng nắng, chẳng thấy trò huyễn, chẳng thấy người thấy trò huyễn, chẳng thấy ảo thành, chẳng thấy người thấy ảo thành, chẳng thấy việc biến hóa, chẳng thấy người thấy việc biến hóa.
Vì sao?
Vì mộng và người thấy mộng, tiếng vang và người nghe tiếng vang, ảnh tượng và người thấy ảnh tượng, bóng sáng và người thấy bóng sáng, bóng nắng và người thấy bóng nắng, trò huyễn và người thấy trò huyễn, ảo thành và người thấy ảo thành, việc biến hóa và người thấy việc biến hóa đều là sự chấp trước điên đảo của phàm phu ngu si.
Các Bậc A La Hán, Độc giác, Bồ Tát và chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thấy mộng, cũng chẳng thấy người thấy mộng, đều chẳng nghe tiếng vang, cũng chẳng thấy người nghe tiếng vang, đều chẳng thấy ảnh tượng, cũng chẳng thấy người thấy ảnh tượng.
Đều chẳng thấy bóng sáng, cũng chẳng thấy người thấy bóng sánh, đều chẳng thấy bóng nắng, cũng chẳng thấy người thấy bóng nắng, đều chẳng thấy trò huyễn, cũng chẳng thấy người thấy trò huyễn, đều chẳng thấy ảo thành, cũng chẳng thấy người thấy ảo thành, đều chẳng thấy việc biến hóa, cũng chẳng thấy người thấy việc biến hóa.
Vì sao?
Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết Bàn …
Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng phải thành, chẳng phải thật, vô tướng, vô vi, chẳng phải thật có tánh và Niết Bàn v.v… thì tại sao Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa, đối với tất cả pháp khởi tưởng có tánh, tưởng thành, tưởng thật, có tướng, có tác, tưởng thật có tánh, chẳng phải tưởng tịch diệt?
Nếu khởi các tưởng ấy thì đó là điều không có.
Vì sao?
Vì nếu tất cả pháp có một chút tự tánh, có thành, có thật, có tướng, có vi, có thật tánh, chẳng phải tịch diệt, mà có thể nắm bắt được thì đối tượng tu hành là bát nhã Ba la mật đa sâu xa, lẽ ra chẳng phải là bát nhã Ba la mật đa.
Như thế, Đại Bồ Tát khi tu hành bát nhã Ba la mật đa sâu xa, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức. Chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ.
Chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Chẳng chấp trước sắc giới, chẳng chấp trước thanh, hương, vị, xúc, pháp giới.
Chẳng chấp trước nhãn thức giới, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Chẳng chấp trước nhãn xúc, chẳng chấp trước nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Chẳng chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, chẳng chấp trước các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.
Chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Chẳng chấp trước nhân duyên, chẳng chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.
Chẳng chấp trước các pháp do duyên sanh ra. Chẳng chấp trước vô minh, chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não. Chẳng chấp trước Dục Giới, chẳng chấp trước Sắc, Vô Sắc Giới.
Chẳng chấp trước bốn tịnh lự, chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Chẳng chấp trước bốn niệm trụ, chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi Đẳng Giác, tám chi Thánh đạo.
Chẳng chấp trước pháp môn giải thoát không, chẳng chấp trước pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện. Chẳng chấp trước Thánh đế khổ, chẳng chấp trước Thánh đế tập, diệt, đạo. Chẳng chấp trước bố thí Ba la mật đa, chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, bát nhã Ba la mật đa.
Chẳng chấp trước pháp không nội, chẳng chấp trước pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới.
Pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh.
Chẳng chấp trước chân như, chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.
Chẳng chấp trước tám giải thoát, chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ. Chẳng chấp trước tất cả pháp môn Tam Ma Địa, chẳng chấp trước tất cả pháp môn Đà La Ni.
Chẳng chấp trước Bậc Cực Hỷ, chẳng chấp trước Bậc Ly Cấu, Bậc Phát Quang, Bậc Diệm Tuệ, Bậc Cực Nan Thắng, Bậc Hiện Tiền, Bậc Viễn Hành, Bậc Bất Động, Bậc Thiện Tuệ, Bậc Pháp Vân. Chẳng chấp trước năm loại mắt, chẳng chấp trước sáu phép thần thông.
Chẳng chấp trước mười lực Phật, chẳng chấp trước bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám Pháp Phật bất cộng. Chẳng chấp trước pháp không quên mất, chẳng chấp trước tánh luôn luôn xả. Chẳng chấp trước trí nhất thiết, chẳng chấp trước trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.
Chẳng chấp trước quả Dự Lưu, chẳng chấp trước quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc giác. Chẳng chấp trước tất cả hạnh Đại Bồ Tát, chẳng chấp trước quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật. Đại Bồ Tát ấy khi tu hành bát nhã Ba la mật đa do chẳng chấp trước nên có thể viên mãn sơ địa mà ở trong ấy chẳng sanh tham trước.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát chẳng đắc sơ địa thì làm sao ở trong ấy khởi tham trước. Do chẳng tham trước nên có thể viên mãn đệ nhị, đệ tam, đệ tứ, đệ ngũ, đệ lục, đệ thất, đệ bát, đệ cửu, Đệ Thập Địa, nhưng ở trong đó chẳng sanh tham trước.
Vì sao?
Vì Đại Bồ Tát ấy chẳng đắc đệ nhị cho đến Đệ Thập Địa thì làm sao ở trong đó khởi tham trước. Đại Bồ Tát ấy tuy tu hành bát nhã Ba la mật đa nhưng chẳng đắc bát nhã Ba la mật đa. Do chẳng đắc bát nhã Ba la mật đa nên cũng chẳng đắc tất cả pháp. Tuy quán bát nhã Ba la mật đa nhiếp thọ tất cả pháp, nhưng đối với pháp ấy hoàn toàn không sở đắc.
Vì sao?
Vì các pháp như thế cùng với bát nhã Ba la mật đa này không hai, không khác.
Vì sao?
Vì tánh của tất cả pháp chẳng thể phân biệt, nói là chân như, nói là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì pháp nghĩa không xen tạp, không sai biệt vậy.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu tánh của tất cả pháp đều không xen tạp, không sai biệt thì tại sao có thể nói là thiện, là chẳng phải thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, đủ vô lượng pháp môn như thế?
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Theo ý ông thì sao?
Trong thật tánh của tất cả pháp, có pháp nào có thể nói là thiện là phi thiện, là hữu lậu, là vô lậu, là thế gian, là xuất thế gian, là hữu vi, là vô vi, như thế, cho đến là quả Dự Lưu, là quả Nhất Lai, là quả Bất Hoàn, là quả A La Hán, là quả vị Độc giác, là các hạnh Đại Bồ Tát, là quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật chăng?
Thiện Hiện đáp: Bạch Thế Tôn! Không! Bạch Thiện Thệ! Không!
Phật dạy: Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết, tất cả pháp không xen tạp, không sai biệt, không tướng, không sanh, không diệt, không ngại, không nói, không chỉ. Thiện Hiện nên biết, ta khi xưa tu hành đạo Bồ Tát, đối với tự tánh của pháp, hoàn toàn không có sở đắc, đó là hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức. Hoặc nhãn xứ, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Hoặc sắc xứ, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.
Hoặc nhãn giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới. Hoặc sắc giới, hoặc thanh, hương, vị, xúc, pháp giới. Hoặc nhãn thức giới, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới. Hoặc nhãn xúc, hoặc nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, hoặc các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.
Hoặc địa giới, hoặc thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Hoặc nhân duyên, hoặc đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Hoặc pháp do duyên sanh ra. Hoặc vô minh, hoặc hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu não. Hoặc Dục Giới, hoặc Sắc, Vô Sắc Giới.
Hoặc thiện, hoặc phi thiện, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, như thế cho đến, hoặc quả Dự Lưu, hoặc quả Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả vị Độc giác, hoặc các hạnh Đại Bồ Tát, hoặc quả vị giác ngộ cao tột của Chư Phật. Đối với tự tánh của các pháp như thế, đều không có sở đắc.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát tu hành bát nhã Ba la mật đa, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ Đề nhiệm mầu, sắp chứng quả vị giác ngộ cao tột, thường nên khéo biết tự tánh các pháp.
Nếu thường khéo biết tự tánh các pháp thì có khả năng khéo thanh tịnh đạo đại bồ đề, cũng có khả năng viên mãn các hạnh Bồ Tát, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh Cõi Phật, an trụ pháp ấy, mau chứng quả vị giác ngộ cao tột, chuyển pháp luân mầu nhiệm, dùng pháp ba thừa, phương tiện điều phục các loại hữu tình, khiến mau được giải thoát ba cõi.
Này Thiện Hiện! Như thế, Đại Bồ Tát lấy vô sở đắc là phương tiện, nên học bát nhã Ba la mật đa, có khả năng mau viên mãn tất cả Phật Pháp.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba