Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Bảy - Phẩm Tứ Tướng - Phần Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM BẢY
PHẨM TỨ TƯỚNG
PHẦN BA
Này Ca Diếp! Xưa kia, vì mẹ chết nên Vua Ba Tư Nặc rất thương nhớ buồn khổ, đến thăm Như Lai.
Như Lai liền hỏi cớ sao nhà Vua lại quá buồn khổ như vậy?
Vua đáp: Bạch Thế Tôn hôm nay Thái Hậu thăng hà. Giả sử có người nào làm cho mẹ tôi sống lại, tôi nhường ngôi và đem của tiền châu báu cùng thân này để thưởng tặng cho người ấy xử dụng.
Như Lai khuyên: Này Đại Vương! Nhà Vua chớ nên quá sầu khổ. Tất cả chúng sanh hễ thọ mạng hết gọi là chết.
Chư Phật, Duyên Giác, Thanh Văn còn bỏ thân này, huống là phàm phu!
Này Ca Diếp! Vì dạy bán tự cho Vua Ba Tư Nặc nên Như Lai nói bài kệ ấy.
Nay Như Lai vì các hàng Thanh Văn đệ tử giảng nói luận Tỳ Già La, tức là Như Lai thường còn không biến đổi.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật:
Như lời Phật dạy:
Không chỗ chứa nhóm
Nơi ăn biết đủ
Như chim bay không
Dấu không thể tìm.
Bạch Thế Tôn, những nghĩa này là thế nào?
Trong chúng hội đây ai được gọi là không chỗ chứa nhóm?
Ai được gọi là nơi ăn biết đủ?
Ai đi nơi hư không chẳng thể tìm dấu?
Mà sự đi này là đến phương nào?
Phật dạy: Luận về chứa nhóm là nói về của báu.
Này Ca Diếp! Chứa nhóm có hai thứ: Một là hữu vi, hai là vô vi. Chứa nhóm hữu vi là hạnh Thanh Văn, chứa nhóm vô vi là hạnh Như Lai.
Này Ca Diếp! Tăng cũng có hai hạng: Một là hữu vi, hai là vô vi. Hữu vi Tăng gọi là hàng Thanh Văn. Thanh Văn Tăng không có chứa nhóm những tôi tớ đồ vật phi pháp, kho đụn lúa gạo, muối, mè, đậu, bắp. Nếu có người nói Như Lai cho chứa tôi tớ các đồ vật như vậy, người ấy sẽ bị báo rút lưỡi.
Hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai gọi là không chứa nhóm, cũng được gọi là nơi ăn biết đủ. Nếu có tham ăn gọi là chẳng biết đủ.
Người khó tìm dấu thời là bâc gần đạo vô thượng bồ đề. Như Lai nói người này dầu đi mà không chỗ đến.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Hàng Hữu vi Tăng còn không chứa nhóm huống là vô vi Tăng. Vô vi Tăng chính là Như Lai. Thế sao Như Lai phải có chứa nhóm. Và chứa nhóm đó gọi là cất dấu.
Thế nên Như Lai phàm có nói ra đều không lẫn tiếc, thế nào gọi là dấu cất?
Không thể tìm ra dấu vết đó, gọi là Niết Bàn. Trong Niết Bàn không có mặt trời, mặt trăng, Tinh Tú, lạnh nóng gió mưa. Sanh già bệnh chết, hai mươi lăm cõi, lìa các sự lo khổ và các phiền não.
Niết Bàn như vậy là chỗ Như Lai ở thường không biến đổi. Vì nhân duyên ấy, Như Lai đến trong rừng Ta La nơi đại Niết Bàn mà nhập đại Niết Bàn.
Phật nói: Này Ca Diếp! Chữ Đại đó tánh ấy rộng lớn. Như người sống lâu vô lượng tuổi thời gọi là đại trượng phu. Người này nếu có thể an trụ nơi chánh pháp thời gọi là bậc siêu thăng trong loài người.
Như tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân mà Như Lai đã dạy, là một người có đủ hay nhiều người có đủ. Nếu một người đủ cả tam thời là rất siêu thăng. Nói rằng Niết Bàn đó, không có tỳ vết.
Này Ca Diếp! Như người bị xuông tên độc đau nhức lắm, gặp được lương y nhổ tên độc ra rồi truyền cho thuốc hay, người ấy hết đau nhức được an vui. Vị lương y này liền đi nơi thành ấp và các xóm làng, hễ chỗ nào có người bị thương đau khổ liền đến điều trị.
Cũng vậy, Như Lai thành bậc Đẳng Chánh Giác làm vị Đại Y Vương, thấy chúng sanh khổ não nơi Diêm Phù Đề, từ vô lượng kiếp bị tên độc phiền não, dâm nộ, si mê làm đau nhức, bèn nói Kinh Đại Thừa Cam Lộ Pháp dược.
Điều trị nơi đây rồi, Như Lai lại đến xứ khác, nơi có tên độc phiền não, thị hiện làm Phật để điều trị. Thế nên gọi là Đại Bát Niết Bàn.
Đại Bát Niết Bàn đó gọi là chỗ giải thoát. Tùy nơi nào có chúng sanh đáng được điều phục, thời Như Lai ở trong ấy mà thị hiện. Vì nghĩa chân thật thậm thâm này nên gọi là Đại Bát Niết Bàn.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Y sư trong đời có thể điều trị thương tích cho tất cả chúng sanh chăng?
Phật nói: Này Ca Diếp! Thương tích của người đời phàm có hai thứ: Một là bệnh có thể trị, hai là bệnh không thể trị. Bệnh có thể trị thời y Sư trị được, còn bệnh không thể trị thời y Sư không trị được.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Cứ như lời Phật dạy, thời Như Lai đã trị bệnh cho chúng sanh nơi Diêm Phù Đề này rồi.
Nếu nói đã trị rồi, sao nơi đây còn có chúng sanh chưa được Niết Bàn?
Nếu chưa được Niết Bàn cả, sao Như Lai nói rằng điều trị đã xong mà muốn đến xứ khác?
Phật nói: Này Ca Diếp! Chúng sanh trong Diêm Phù Đề này có hai hạng: Một hạng tin và một hạng không tin. Hạng có lòng tin thời gọi là trị được, vì sẽ không phiền não quyết định được Niết Bàn, thế nên Như Lai nói trị chúng sanh nơi Diêm Phù Đề rồi.
Hạng không lòng tin gọi là nhất xiển đề. Hạng nhất xiển đề gọi là không trị được. Trừ hạng nhất xiển đề, ngoài ra đều đã trị xong, thế nên Niết Bàn gọi là không thương tích.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là Niết Bàn?
Phật nói: Này Ca Diếp! Niết Bàn đó, gọi là giải thoát.
Bạch Thế Tôn! Chỗ nói giải thoát, là sắc hay chẳng phải sắc?
Này Ca Diếp! Hoặc là sắc, hoặc là chẳng phải sắc. Thanh Văn, Duyên Giác giải thoát là không phải sắc. Chư Phật Như Lai giải thoát là sắc.
Này Ca Diếp! Thế nên giải thoát cũng sắc cũng chẳng phải sắc. Như Lai vì hàng Thanh Văn đệ tử nói là chẳng phải sắc.
Bạch Thế Tôn! Thanh Văn, Duyên Giác nếu chẳng phải sắc thời thế nào được trụ?
Này Ca Diếp! Như Trời Phi tưởng phi phi tưởng cũng phải là sắc chẳng phải sắc, Như Lai cũng nói là chẳng phải sắc.
Như có người nạn rằng Trời Phi tưởng phi phi tưởng nếu chẳng phải sắc thế nào được trụ, đi lại, cử động?
Những nghĩa này là cảnh giới chư Phật. Chẳng phải Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Giải thoát cũng vậy là sắc chẳng phải sắc nói là chẳng phải sắc, cũng là tưởng chẳng phải tưởng nói là chẳng phải tưởng. Những nghĩa như vậy là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Bấy giờ Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật rằng: Ngưỡng mong Đức Thế Tôn thương xót nói rộng lại những nghĩa hạnh đại Niết Bàn giải thoát.
Phật khen: Lành thay! Lành thay! Này Ca Diếp! Người chân giải thoát gọi là xa lìa tất cả hệ phước. Nếu chân giải thoát lìa các hệ phước thời không có sanh cũng không hòa hiệp. Ví như cha mẹ hòa hiệp sanh ra con. Người chân giải thoát thời không phải như vậy, thế nên giải thoát gọi rằng chẳng sanh.
Này Ca Diếp! Như Đề hồ, tánh nó thanh tịnh. Cũng vậy, Như Lai chẳng phải nhân cha mẹ hòa hiệp mà sanh, tánh Như Lai thanh tịnh, sở dĩ thị hiện có cha mẹ là vì muốn hóa độ các chúng sanh. Người chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai cùng giải thoát không hai không khác.
Ví như tháng mùa xuân gieo các hột giống, đặng hơi ẩm ướt liền mọc mầm lên cây. Người chân giải thoát thời chẳng như vậy.
Lại giải thoát gọi là hư vô. Hư vô tức là giải thoát, giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là hư vô, chẳng phải năng tác sở tác. Phàm là tác giả dường như thành quách lầu nhà để ngăn kẻ địch, chân giải thoát thời chẳng như vậy. Thế nên giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát tức là pháp vô vi. Ví như thợ gốm làm đồ rồi lại bị bể. Giải thoát chẳng như vậy. Chân thiệt giải thoát chẳng sanh chẳng diệt. Thế nên giải thoát tức là Như Lai.
Cũng vậy, Như Lai bất sanh bất diệt, chẳng già, chẳng chết, chẳng hư chẳng hoại, chẳng phải pháp hữu vi. Do những nghĩa này nên gọi Như Lai nhập đại Niết Bàn.
Già là dời đổi, tóc bạc, mặt nhăn, chết là thân hư mạng hết, trong giải thoát không hai thứ này. Vì không già chết nên gọi giải thoát. Như Lai cũng không tóc bạc mặt nhăn các pháp hữu vi dời đổi, thế nên Như Lai không có già. Không có già thời không có chết.
Lại giải thoát gọi rằng không bệnh. Bệnh là bốn trăm lẽ bốn bệnh và các thứ bệnh ở ngoài đến xâm tổn nơi thân. Nơi đây không có các bệnh ấy nên gọi là giải thoát.
Không tật bệnh là chân thật giải thoát, chân thật giải thoát tức là Như Lai. Như Lai không bệnh cho nên Pháp Thân cũng không có bệnh. Không bệnh như vậy tức là Như Lai.
Chết là thân hư mạng hết. Nơi đây không chết tức là cam lộ. Cam Lộ này là chân thật giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai.
Như Lai thành tựu công đức như vậy, thế sao lại nói Như Lai vô thường?
Không có lẽ gì nói Như Lai là vô thường được.
Là thân Kim Cang thế nào vô thường! Thế nên Như Lai không gọi là chết.
Như Lai thanh tịnh không có cấu nhơ. Thân Như Lai chẳng bị nhơ nhớp trong thai, như hoa sen trắng bổn tánh trong sạch. Như Lai giải thoát cũng lại như vậy. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Thế nên Như Lai thanh tịnh không cấu nhơ.
Lại giải thoát trọn không còn sót thừa những phiền não lỗi lầm. Cũng vậy, Như Lai không có tất cả phiền não lỗi lầm.
Lại giải thoát không có đấu tranh. Ví như người đói, thấy kẻ khác ăn uống thời sanh lòng tham đoạt. Giải thoát không phải như vậy.
Lại giải thoát gọi là an tịnh. Người phàm tục cho rằng an tịnh là Đại Tự Tại Thiên, đây là lời hư vọng. Chân thiệt an tịnh là rốt ráo giải thoát, rốt ráo giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát tức là an ổn. Như chỗ nhiều giặc cướp chẳng gọi an ổn. Nơi thanh bình mới gọi là an ổn. Trong giải thoát không có bố úy nên gọi là an ổn. Thế nên an ổn tức là chân thật giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy.
Lại giải thoát không có bạn đồng hàng. Có bạn đồng hàng như Quốc Vương có các lân quốc. Không bạn đồng hàng như chuyển luân thánh vương không có Vua nào đứng ngang hàng.
Cũng vậy, giải thoát không có đồng hạng. Không có đồng hàng là chân giải thoát. Chân giải thoát là Như Lai chuyển pháp luân vương. Thế nên Như Lai không bạn đồng hàng.
Lại giải thoát không ưu sầu. Có ưu sầu như Quốc Vương sợ nước láng giềng mạnh nên ưu sầu. Giải thoát không như vậy. Như phá được oán địch thời không còn lo sợ nữa. Cũng vậy, giải thoát không có lo sợ, không lo sợ tức là Như Lai.
Lại giải thoát là không lo mừng. Ví như người đàn bà chỉ có một đứa con trai, có việc xa nhà, thoạt có tin con bị nạn chết thời rất sầu khổ, về sau lại nghe rằng còn sống thời rất vui mừng. Trong giải thoát không có sự lo mừng như vậy. Không lo mừng là chân giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát không có bụi nhơ. Như tháng mùa xuân sau khi mặt trời lặn, gió nổi bụi mù. Trong giải thoát không có việc ấy. Không bụi mù dụ cho chân giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai.
Như viên minh châu trong búi tóc của Thánh Vương không có nhơ bợn. Tánh giải thoát cũng không nhơ bợn. Không nhơ bợn dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Như chất vàng không lộn cát đá mới gọi là vàng ròng, ai được vàng ròng thời tự biết là mình có của.
Cũng vậy, tánh giải thoát như chất vàng ròng. Vàng ròng kia dụ cho chân giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai.
Như bình sành bị bể, tiếng nghe lạch cạch. Bình bằng Kim Cang bửu thời chẳng như vậy. Giải thoát cũng không diếc bể. Bình báu Kim Cang dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Thế nên thân Như Lai không hư hoại.
Tiếng lạch cạch như hột đu đủ dầu phơi trong nắng, nổ tiếng lạch cạch. Giải thoát không có như vậy. Như bình báu Kim Cang không có tiếng bể lạch cạch. Giả sử trăm ngàn người, cùng đua nhau bắn, không ai làm bể được. Không tiếng bể lạch cạch dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Như người nghèo thiếu nợ, bị chủ nợ đòi hỏi kiện thưa, gông cùm trói nhốt. Trong giải thoát không có các việc ấy. Như Trưởng giả giàu lớn có vô số vàng bạc châu báu, thế lực tự tại, chẳng mang nợ ai.
Giải thoát cũng như vậy, chứa vô lượng của Pháp Bảo, thế lực tự tại, không có nợ thiếu. Không nợ thiếu dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại chân giải thoát gọi rằng không bức ngặt. Như mùa xuân lần nóng, mùa hạ oi bức, mùa đông rét lạnh. Trong chân giải thoát không có những sự chẳng vừa ý như vậy. Không bức ngặt dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Ví như người ăn cá đã no mà lại uống sữa, người này thời là gần sự chết. Trong chân giải thoát không có sự như vậy. Người này nếu được thuốc hay Cam Lồ thời được khỏi bệnh. Chân giải thoát cũng như vậy. Thuốc hay cam lồ dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Thế nào là bức ngặt, và không bức ngặt?
Như người phàm ngã mạn tự cao cho rằng không ai hại được mình, bèn ở chung với rắn cọp độc trùng, nên biết người này sẽ bị hoạnh tử. Đây là bức ngặt. Trong chân giải thoát không có việc như vậy.
Không bị bức ngặt là như thần châu của Vua Chuyển Luân trừ được chín mươi sáu thứ độc trùng, ai nghe được thần châu này thời các thứ độc đều tiêu diệt. Chân giải thoát cũng lại như vậy xa lìa cả hai mươi lăm cõi. Tiêu độc dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại không bức ngặt như hư không. Giải thoát cũng vậy. Hư không kia dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại bức ngặt như gần cỏ khô mà đốt đèn lửa thời bị cháy lan. Trong chân giải thoát không có sự như vậy.
Lại không bức ngặt, ví như mặt trời, mặt trăng không bức chúng sanh. Cũng vậy, giải thoát không bức ngặt chúng sanh. Không bức ngặt đây dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là pháp vô động, vô động là không oan không thân. Như Vua Chuyển Luân Vương không có vị Thánh Vương khác để làm thân hữu. Giải thoát cũng vậy.
Thánh Vương không thân hữu dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy.
Như áo trắng dễ nhuộm màu. Giải thoát không như vậy, nên giải thoát là vô động.
Như hoa Bà Sư, muốn có mùi hôi và màu xanh thời không thể được. Cũng vậy, muốn trong giải thoát có mùi hôi và có các màu thời không thể được, nên giải thoát là pháp vô động. Giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là hi hữu. Như trong nước mọc hoa sen thời không phải hi hữu. Trong lửa mọc hoa sen mới là hi hữu, ai thấy cũng đều vui mừng. Cũng vậy, ai được thấy chân giải thoát cũng đều vui mừng.
Hi hữu kia dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai, Như Lai tức là Pháp Thân.
Như trẻ nít chưa mọc răng, khôn lớn lần răng mới mọc. Giải thoát chẳng phải vậy. Không có sanh cùng bất sanh.
Lại giải thoát gọi là Hư tịch, Vô hữu, Bất định. Bất định là như hạng nhất xiển đề không phải rốt ráo chẳng dời, như người phạm tội trọng không phải rốt ráo chẳng thành Phật.
Nếu có lòng tin trong sạch ở nơi chánh pháp, hoặc được làm Ưu Bà Tắc thời diệt nhất xiển đề. Còn người phạm tội trọng, khi diệt tội ấy thời được thành Phật. Nếu nói là rốt ráo không dời, rốt ráo chẳng thành Phật Đạo thời là không đúng. Trong chân giải thoát đều không có sự diệt tận như vậy.
Lại hư tịch thuộc về pháp giới, như pháp giới tánh tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại nhất xiển đề nếu diệt tận thời chẳng được gọi là nhất xiển đề. Những gì gọi là nhất xiển đề. Hạng nhất xiển đề đoạn diệt tất cả căn lành, tâm họ không vin niếu tất cả pháp lành, nhẫn đến không sanh một niệm lành. Trong chân giải thoát đều không có sự như vậy. Không các việc ấy tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là chẳng thể lường được. Ví như đống thóc, có thể biết số cân lượng. Chân giải thoát thời chẳng như vậy. Ví như biển lớn thời không thể đo lường được. Cũng vậy, giải thoát không thể đo lường. Không thể đo lường là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là vô lượng pháp. Như một chúng sanh có nhiều nghiệp báo. Cũng vậy, giải thoát có vô lượng quả báo. Vô lượng quả báo là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là rộng lớn. Như biển lớn không gì sánh bằng. Cũng vậy, giải thoát không gì sánh bằng. Không gì sánh bằng là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là tối thượng, như hư không cao hơn cả không gì sánh. Cũng vậy, giải thoát cao hơn cả không gì sánh. Cao không gì sánh tức chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không gì qua. Ví như chỗ ở của sư tử, các loài thú không con nào qua được. Cũng vậy, giải thoát không gì qua được. Không gì qua được là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là vô thượng. Như phương Bắc là trên cả các phương. Cũng vậy, giải thoát là không còn gì trên. Không gì trên là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là vô thượng thượng. Như phương Bắc qua nơi phương Đông là vô thượng thượng. Cũng vậy, giải thoát là vô thượng thượng. vô thượng thượng là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là pháp hằng. Như thân của Trời người chết, đây gọi là hằng, chẳng phải không hằng. Cũng vậy, giải thoát chẳng phải không hằng. Chẳng phải không hằng là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là cứng chắc. Như Khư Đà La Chiên Đàn trầm thủy, tánh của nó cứng chắc. Cũng vậy, tánh của giải thoát cứng chắc. Tánh cứng chắc tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không rỗng bộng. Như thân cây tre lau rỗng bộng. Giải thoát không phải như vậy, nên biết giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không ở được. Như tường vách khi chưa sơn phết thời ruồi muỗi đáp đậu trên đó, lúc sơn phết rồi, côn trùng nghe mùi sơn bèn không đến đậu ở. Không ở như vậy dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là vô biên. Ví như Tụ lạc đều có biên giới. Giải thoát không phải như vậy, không có biên tế như hư không. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không thể thấy. Ví như khó thấy dấu chim bay trên hư không, khó thấy như vậy dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là thậm thâm. Vì hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể vào được. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại thậm thâm đó là chỗ cung kính của Phật và Bồ Tát. Ví như hiếu tử cúng dường cha mẹ công đức rất sâu. Công đức rất sâu, dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không thấy được. Như người đời không thấy được đỉnh đầu của mình. Cũng vậy, hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thấy được giải thoát. Chân giải thoát đây tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không nhà cửa. Ví như hư không, không có nhà cửa. Nói nhà cửa là dụ cho hai mươi lăm cõi. Không nhà cửa dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là chẳng thể nắm lấy. Như trái a ma lặc, người nắm lấy được. Giải thoát không thể nắm lấy. Không thể nắm lấy là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không thể cầm. Ví như vật huyễn không thể cầm. Không thể cầm là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát không có thân thể. Ví như thân người sanh các thứ ghẻ lác, ung nhọt, điên cuồng, gầy ốm. Trong chân giải thoát không có những bệnh như vậy. Không bệnh dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là một vị. Như sữa có một vị. Một vị như vậy là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là thanh tịnh. Như nước không bùn đứng lặng trong sạch. Đứng lặng trong sạch là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là nhất vị thanh tịnh. Như giọt mưa nơi hư không nhất vị thanh tịnh. Nhất vị thanh tịnh dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là trừ dẹp. Ví như trăng tròn không mây mù. Không mây mù là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là tịch tịnh. Ví như người mang bệnh nóng khi được lành mạnh thời thân tịch tịnh. Giải thoát cũng vậy, thân được tịch tịnh. Thân được tịch tịnh tức chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát tức là bình đẳng. Ví như ruộng hoang, loài rắn độc lang sói đều có tâm sát hại. Giải thoát không như vậy, không có tâm sát hại. Không tâm sát hại là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại bình đẳng đó, như lòng bình đẳng của cha mẹ đối với các con. Giải thoát cũng vậy, tâm ấy bình đẳng. Tâm bình đẳng tức chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không chỗ khác. Ví như có người chỉ ở nơi tòa nhà cao đẹp sạch sẽ, không có chỗ ở nào khác. Giải thoát cũng vậy, không có chỗ nào khác. Không chỗ nào khác là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là tri túc. Ví như người đói gặp được món ăn ngon thời ăn mãi không nhàm. Giải thoát không phải như vậy. Như ăn cháo sữa thời không cần món gì nữa. Không cần món gì dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là đoạn tuyệt. Như người bị trói dứt dây được thoát khỏi. Cũng vậy, giải thoát dứt đứt tất cả sự trói buộc của lòng nghi ngờ. Đoạn nghi như vậy là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là đến bờ kia. Ví như con sông lớn có bờ bên này bờ bên kia. Giải thoát không như vậy. Dầu không bờ bên này mà có bờ bên kia. Có bờ bên kia đó là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là im lặng, không phải như biển lớn vang tiếng ồ ạt của thủy triều. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là mỹ diệu. Ví như các thứ thuốc trộn với trái A lê lặc thời có vị đắng. Giải thoát không như vậy, vị như Cam Lồ. Vị như Cam Lồ dụ cho chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát trừ các phiền não. Ví như lương y hòa hiệp các thứ thuốc trị lành các bệnh tật. Cũng vậy, giải thoát trừ được các phiền não. Trừ phiền não tức chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không hẹp. Ví như căn nhà nhỏ không dung được nhiều người. Giải thoát không phải như vậy, dung chứa được nhiều. Dung được nhiều là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là diệt những tham ái, chẳng xen dâm dục. Ví như người nữ nhiều sự tham dục. Giải thoát không như vậy. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai không có những phiền não, tham dục, sân hận, ngu si, kiêu mạn v.v…
Lại giải thoát gọi là không ái nhiễm.
Ái có hai thứ: Một là ngạ quỷ ái, hai là pháp ái.
Chân giải thoát lìa nơi ngạ quỷ ái. Vì thương xót chúng sanh mà có pháp ái. Pháp ái như vậy là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát lìa ngã và ngã sở. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy.
Lại giải thoát tức là diệt tận, lìa sự tham trong Ba Cõi. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là pháp vậy.
Lại giải thoát gọi là cứu hộ. Hay cứu hộ tất cả những kẻ sợ hãi. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai là pháp vậy.
Lại giải thoát tức là chỗ về. Nếu về nương nơi giải thoát như vậy thời chẳng cầu nương chỗ khác. Ví như có người nương tựa nơi Vua, chẳng cầu nương tựa chỗ khác. Dầu nương tựa nơi Vua mà có động chuyển.
Về nương nơi giải thoát không có động chuyển. Không động chuyển là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai là pháp vậy.
Lại giải thoát gọi là tòa nhà. Ví như có người đi nơi rừng vắng thời có hiểm nạn. Giải thoát không như vậy, chẳng có hiểm nạn. Chẳng có hiểm nạn tức chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát là vô sở úy. Như sư tử chúa không sợ trăm thú. Cũng vậy, giải thoát không sợ các loài ma. Không sợ sệt là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát không có chật hẹp. Ví như con đường hẹp không dung được hai người đi ngang nhau. Giải thoát chẳng như vậy. Giải thoát ấy tức là Như Lai. Ví như có người bị cọp rượt té xuống giếng sâu. Giải thoát không như vậy. Giải thoát ấy tức là Như Lai.
Lại không chật hẹp, như đi thuyền vượt biển an ổn, lòng được vui mừng. Giải thoát cũng vậy, tâm được vui mừng. Được vui mừng là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát là lìa các nhân duyên. Ví như nhân sữa được lạc, nhân lạc được tô, nhân tô được Đề Hồ. Trong chân giải thoát đều không có những nhân ấy. Không nhân là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại chân giải thoát hay phục kiêu mạn. Ví như Đại Vương kiêu mạn đối với Tiểu Vương. Giải thoát không phải như vậy. Giải thoát ấy tức là Như Lai, Như Lai tức là pháp vậy.
Lại giải thoát phục các phóng dật. Người phóng dật thời có nhiều tham dục. Trong chân giải thoát không có tên gọi ấy. Không tên gọi ấy là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát hay trừ vô minh. Như thứ tô thượng hạng lọc sạch cả cạn nhơ bèn gọi là Đề Hồ. Cũng vậy, giải thoát trừ sạch vô minh sanh ra chân minh. Chân minh ấy tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là tịch tịnh, thuần một không hai. Như voi nơi đồng hoang trống, riêng một mình không bạn bầy. Cũng vậy, giải thoát thuần một không hai, thuần một không hai là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là cứng đặc. Như tre, lau, thầu dầu, cọng cây rỗng bộng mà hột thời cứng đặc. Trừ Phật Như Lai, tất cả Trời người đều không cứng đặc. Chân giải thoát xa lìa tất cả các dòng hữu lậu. Giái thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là bỏ các hữu lậu, như có người ăn rồi mà ói ra. Bỏ các hữu lậu là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là quyết định, như mùi thơm hoa Bà sư không có trong hoa thất diệp. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là thủy đại. Ví như thủy đại thắng hơn các đại khác, hay nhuận hột giống của tất cả cỏ cây. Cũng vậy, giải thoát hay nhuận tất cả loài có sự sanh sống. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là vào. Như có cửa nẻo thời thông vào hầm vàng, có thể được vàng. Cũng vậy, giải thoát như cửa nẻo kia. Người tu vô ngã thời được vào trong. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là hay giỏi. Ví như học trò theo bên thầy, làm đúng theo chỗ thầy dạy bão thời được gọi là hay giỏi. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là pháp xuất thế, ra khỏi hơn nơi tất cả pháp. Như vị của sữa và tô hơn vị của các thứ khác. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là bất động. Như ngạch cửa gió không làm động được. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không sóng dợn. Như nước biển cả luôn có sóng dợn. Giải thoát không phải như vậy. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là có chỗ dùng. Như vàng Diêm Phù Đàn dùng được nhiều việc. Không ai nói được chỗ xấu dở của vàng này. Cũng vậy, giải thoát không có xấu dở. Không có xấu dở là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát bỏ hạnh anh nhi, như người lớn bỏ hạnh trẻ nít. Cũng vậy, giải thoát trừ bỏ năm ấm. Trừ bỏ năm ấm là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là rốt ráo. Như người bị trói, được mở thả, tắm rửa sạch sẽ rồi về nhà. Cũng vậy, giải thoát là rốt ráo thanh tịnh. Rốt ráo thanh tịnh là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là sự vui vô tác, vì đã ói sạch tham dục, sân hận cùng ngu si. Ví như có người uống nhầm thuốc độc, phải uống thuốc ói, khi ói hết chất độc thời thân được an vui. Giải thoát cũng vậy, ói các độc phiền não kiết phược, thân được an vui gọi là sự vui vô tác. Sự vui vô tác tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là đoạn tất cả pháp hữu vi xuất sanh tất cả vô lậu thiện pháp.
Đoạn bít các đạo: Hoặc là ngã, vô ngã, phi ngã, phi vô ngã.
Chỉ đoạn sự chấp lấy, chớ không đoạn ngã kiến. Ngã kiến đó gọi là Phật Tánh. Phật Tánh tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là chẳng không mà không. Phàm không, không gọi là vô sở hữu, vô sở hữu là sự vọng chấp, giải thoát của các nhà ngoại đạo Ni Kiền Tử, mà thật ra không có giải thoát nên gọi là không không. Chân giải thoát thời không như vậy nên gọi là chẳng không mà không.
Chẳng không mà không là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là không mà chẳng không. Như bình đựng nước đựng sữa, dầu không nước không sữa nhưng vẫn được gọi là bình nước, bình sữa. Các thứ bình đây không thể gọi là không hay chẳng không được. Nếu nói là không thời không được có sắc, hương,vị, xúc. Nếu nói là chẳng không thời lại không có nước sữa.
Giải thoát cũng vậy không thể nói là sắc cùng với chẳng phải sắc. Chẳng thể nói là không cùng với chẳng không. Nếu nói là không thời chẳng được có thường, lạc, ngã, tịnh. Nếu nói là chẳng không thời ai thọ thường, lạc, ngã, tịnh này. Vì những nghĩa ấy nên không thể nói là không cùng với bất không.
Không là nói không hai mươi lăm cõi và các phiền não, tất cả sự khổ, tất cả tướng, tất cả hạnh hữu vi. Như bình không nước thời gọi là không.
Chẳng không là nói chân thật thiện sắc: Thường lạc, ngã, tịnh, chẳng động, chẳng biến. Như sắc, hương, vị, xúc của cái bình, thời gọi là chẳng không. Vì vậy nên giải thoát dụ như cái bình kia. Cái bình kia gặp duyên thời bị bể hư. Giải thoát không hề bị hư hoại. Không thể hư hoại là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát gọi là lìa ham muốn. Ví như có người lòng ham muốn ngôi Thiên Đế, Phạm Vương, Tự Tại Thiên Vương. Giải thoát không như vậy. Khi đã thành bậc vô thượng Chánh Giác rồi thời không ai không nghi. Không ai không nghi là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai.
Lại giải thoát đoạn sự ham muốn của ba cõi, đoạn tất cả tướng, tất cả hệ phược, tất cả phiền não, tất cả sanh tử, tất cả nhân duyên, tất cả quả báo. Giải thoát như vậy tức là Như Lai. Như Lai tức là Niết Bàn.
Tất cả chúng sanh vì sợ phiền não sanh tử nên thọ Tam Quy Y. Ví như bầy nai sợ thợ săn, nhảy khỏi một nhảy dụ cho một quy y, nhảy ba nhảy dụ ba quy y. Do nhảy khỏi ba nhảy mà được thoát nạn an vui. Chúng sanh cũng vậy vì sợ bốn loài ma mà thọ Tam Quy Y.
Do Tam Quy Y nên được an vui. Được an vui tức là chân giải thoát. Chân giải thoát tức là Như Lai. Như Lai tức là Niết Bàn. Niết Bàn tức là vô tận. Vô tận tức là Phật Tánh. Phật Tánh tức là quyết định. Quyết định tức là Vô Thượng Chánh Giác.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Niết Bàn, Phật Tánh, quyết định và Như Lai là một nghĩa, thế sao nói rằng có Ba Quy Y?
Phật dạy: Này Ca Diếp! Tất cả chúng sanh sợ sanh tử nên cầu Tam Quy Y.
Vì do Tam Quy Y, mà biết Phật Tánh, quyết định, Niết Bàn.
Này Ca Diếp! Có pháp, tên thời một mà nghĩa thời khác. Có pháp, tên cùng nghĩa đều khác. Tên một nghĩa khác như Phật thường, pháp thường, tăng thường, Niết Bàn, hư không cũng đều thường.
Tên cùng nghĩa đều khác: Như Phật gọi là giác, pháp gọi là bất giác, tăng gọi là hòa hiệp, Niết Bàn gọi là giải thoát, hư không gọi là phi thiện cũng gọi là vô ngại.
Này Ca Diếp! Tam Quy Y danh nghĩa đều khác, thế nên Như Lai bảo Ma Ha Ba Xà Ba Đề rằng: Này Kiều Đàm Di chớ cúng dường Như Lai, nên cúng dường Tăng, nếu cúng dường Tăng thời được cúng dường Tam Quy đầy đủ.
Ma Ha Ba Xà Ba Đề thưa rằng trong chúng tăng không Phật không pháp, sao cho rằng cúng dường Tăng thời được đầy đủ cúng dường Tam Quy?
Như Lai dạy: Bà tuân lời Như Lai đó là cúng dường Phật. Vì giải thoát là cúng dường pháp. Chúng Tăng nhận lãnh là cúng dường Tăng.
Này Ca Diếp! Thế nên Tam Quy chẳng được là một.
Này Ca Diếp! Hoặc có lúc Như Lai nói một làm ba, nói ba làm một. Nghĩa ấy là cảnh giới của Chư Phật, chẳng phải là hàng Thanh Văn cùng Duyên Giác biết được.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Như lời Thế Tôn nói rốt ráo an vui gọi là Niết Bàn, nghĩa này như thế nào?
Luận về Niết Bàn thời bỏ thân, bỏ trí, nếu bỏ thân trí ai sẽ thọ vui?
Phật dạy: Này Ca Diếp! Ví như có người ăn xong buồn nôn, bèn đi ra ngoài mà ói, ói rồi trở vào nhà. Bạn bè hỏi anh đã lành mạnh chưa mà trở vào nhà. Người ấy đáp đã lành, thân tôi được an vui. Như Lai cũng vậy, rốt ráo xa lìa hai mươi lăm cõi, trọn được chỗ Niết Bàn an lạc không thể động chuyển, không có diệt tận, dứt tất cả thọ, gọi là sự vui không thọ.
Không thọ như vậy gọi là sự vui thường trụ. Nếu nói Như Lai có thọ sự vui thời là không đúng. Thế nên rốt ráo vui tức là Niết Bàn, Niết Bàn tức là chân giải thoát, chân giải thoát tức là Như Lai.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bất sanh bất diệt là giải thoát ư?
Phật nói: Phải! Bất sanh bất diệt tức là giải thoát, giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Nếu bất sanh bất diệt là giải thoát, thời tánh hư không cũng không sanh diệt lẽ ra là Như Lai. Như tánh Như Lai tức là giải thoát.
Phật nói: Này Ca Diếp! Việc ấy không phải vậy.
Như tiếng hót rất thanh diệu của chim Ca Lăng Tần Già cùng chim Mạng Mạng, chừng có đồng với tiếng hót của chim quạ, chim khách chăng?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Trăm ngàn muôn lần tiếng hót của chim quạ, chim khách sánh cũng không bằng tiếng hót của chim Ca Lăng Tần Già cùng chim Mạng Mạng.
Bạch Thế Tôn! Tiếng của chim Ca Lăng Tần Già rất thanh diệu, thân cũng khác, sao Đức Thế Tôn lại đem so sánh với chim quạ, chim khách. Khác nào đem hột đình lịch sánh với núi Tu Di. Phật sánh cùng hư không cũng lại như vậy.
Tiếng của chim Ca Lăng Tần Già có thể dụ cho tiếng nói của Phật. Không thể đem dụ với tiếng của chim quạ, chim khách.
Phật khen: Hay thay! Hay thay! Nay ông khéo hiểu được pháp rất sâu khó hiểu.
Có lúc vì một nhân duyên mà Như Lai dẫn hư không để dụ cho giải thoát. Giải thoát như vậy tức là Như Lai.
Chân giải thoát, tất cả Trời người không ai có thể sánh ví được. Mà hư không kia thiệt cũng chẳng phải là ví dụ. Nhưng vì giáo hoá chúng sanh nên đem sự chẳng phải ví dụ để làm dụ. Phải biết giải thoát tức là Như Lai. Tánh Như Lai tức là giải thoát. Giải thoát cùng Như Lai không hai, không khác.
Này Ca Diếp! Chẳng phải ví dụ, như vật không gì sánh không thể dẫn làm dụ. Vì có nhân duyên có thể dẫn làm dụ. Như trong Khế Kinh có nói diện mạo đoan chánh dường như mặt trăng tròn. Voi trắng sạch sẽ như núi tuyết. Trăng tròn không đồng với gương mặt. Núi tuyết chẳng được tức là voi trắng.
Này Ca Diếp! Chẳng thể đem dụ nào để ví dụ cho chân giải thoát. Chỉ vì giáo hoá chúng sanh mà làm ví dụ thôi. Do nơi ví dụ mà biết các pháp tánh cũng lại như vậy.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Cớ sao Đức Như Lai nói hai thuyết như thế?
Phật nói: Này Ca Diếp! Ví như có người lòng giận tức tay cầm dao gươm muốn hại Như Lai. Như Lai vẫn hòa vui không có vẻ giận hờn.
Người ấy có thể hại được Như Lai để thành tội nghịch chăng?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì thân Như Lai không thể phá hại. Bởi thân Như Lai vốn không thân chỉ có pháp tánh. Tánh của pháp tánh chẳng thể phá hoại. Người ấy đâu hại được thân Phật. Do vì có lòng ác hại mà người ấy thành tội vô gián.
Do nhân duyên này dẫn các thứ ví dụ để được biết pháp chân thật.
Phật khen: Hay thay! Hay thay! Lời ông vừa nói chính là chỗ Như Lai muốn nói.
Này Ca Diếp! Lại như đứa con ác muốn hại mẹ nó. Nhằm lúc nó ở bên đống thóc, mẹ nó đem cơm đến. Nó thấy mẹ liền đi mài dao để giết mẹ.
Mẹ nó biết ý bèn chui vào đống thóc để trốn. Nó cầm dao chém khắp đống thóc, tự cho là đã giết được mẹ nên rất vừa lòng. Lát sau mẹ nó lén chui ra khỏi đống thóc và trở về nhà.
Ông nghĩ thế nào, đứa con ấy có thành tội vô gián không?
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Không quyết định được. Nếu nói là thành tội thời mẹ nó chưa bị giết chết. Nếu nói là không tội, thời chính nó tự cho là đã giết được mẹ và rất vừa lòng.
Người ấy dầu chẳng đầy đủ tội nghịch, mà cũng là nghịch. Do nhân duyên này, nên dẫn các ví dụ để được biết pháp chân thật.
Phật khen: Hay thay! Hay thay! Này Ca Diếp! Vì nhân duyên ấy nên Như Lai nói các phương tiện ví dụ để dụ giải thoát. Dầu nói vô lượng vô số ví dụ, mà thiệt không thể đem dụ để sánh được. Hoặc có nhân duyên cũng nói ví dụ. Hoặc có nhân duyên chẳng nói ví dụ.
Thế nên giải thoát thành tựu vô lượng công đức như vậy, thẳng đến Niết Bàn. Niết Bàn Như Lai cũng có vô lượng công đức như vậy. Do vì thành tựu viên mãn vô lượng công đức như vậy nên gọi là Đại Niết Bàn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay con mới biết chỗ đến của Như Lai là không có cùng tận. Nếu chỗ đã không cùng tận, phải biết thọ mạng cũng phải không cùng tận.
Phật nói: Hay thay! Hay thay! Này Ca Diếp! Nay ông khéo hay hộ trì chánh pháp. Nếu có người nào muốn đoạn trừ phiền não kiết phược, phải nên hộ trì chánh pháp như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba