Phật Thuyết Kinh Thành Cụ Quang Minh định ý - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Chi Diệu, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH
THÀNH CỤ QUANG MINH ĐỊNH Ý
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Chi Diệu, Đời Hậu Hán
PHẦN BỐN
Bấy giờ, Bồ Tát ấy lại đem các cõi nước của tất cả Chư Phật khắp mười phương để trong đồ đựng vuông vức một thước mà không chật hẹp, biến hiện xong rồi trở lại như cũ.
Tất cả chúng hội đều thấy như vậy nên rất đỗi vui mừng, cùng phát ngyện lớn, tâm họ đều an trụ nơi địa vô thượng đôc tôn, tám trăm vạn Bồ Tát và Chư Thiên đều được định tuệ an lạc, sáu mươi vạn người đều thể nhập pháp môn giải thoát, sáu vạn tám ngàn người chứng đắc định ý Thành cụ quang minh này, các Bồ Tát mười phương tất cả đều hoan hỷ.
Đức Phật bảo: Này Thiện Minh!
Những ai tu học định ý Thành cụ quang minh này nhưng vì ở nơi mê hoặc, chấp có, vì chấp có nên ô nhiễm, tăm tối, vì chấp thủ nên ví như trong đêm tối lại nhắm mắt mà đi nên chẳng thấy gì. Người không thể thấy nên nay thọ thân thiện hay ác là do nhân đời trước đã tạo, vì không hiểu biết nên kêu la gào khóc cho rằng đời này làm thiện mà lại nhận tội ác, hoặc đời trước làm ác lại được phước lành, không tư duy rõ nguồn gốc này, bị buộc chặt vào lưới nghi.
Do ở nơi lưới nghi nên có khả năng học cũng chẳng muốn học, có thể siêng năng cũng chẳng muốn siêng năng, có thể hội nhập cũng không muốn hội nhập, do đó mất định này, ở trong buồn khổ, lo âu nhiều kiếp từ xưa đến nay không hề ngừng nghỉ, gọi là sự vận hành khổ nhọc.
Này Thiện Minh! Như Lai ra đời mục đích vì những người mê muội, những ai tu học chánh định này thì dù đó là loài sinh tử, ý niệm mê hoặc đi nữa cũng mau được diệt trừ, lại có thể dẫn dắt tất cả các chúng sinh tham chấp.
Này Thiện Minh! Hãy luôn tư duy về pháp Không, chớ trụ nơi mê hoặc.
Thiện Minh thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có Hiền sĩ sinh ở trong dòng họ thống lãnh các quan chức hoặc làm việc nước, tâm nhiều phiền loạn không thể chuyên nhất, muốn học định này thì nên làm thế nào?
Đức Phật nói: Hiền sĩ có nhân duyên làm quan hoặc ở nơi chẳng yên ổn muốn học định này mà không thể giữ gìn tâm thì nên biên chép kinh này để cúng dường, thiết lập lầu gác, đốt hương kính lễ, trong triều có người nhập định thì trong ba thời luôn cúi đầu làm lễ, chí tâm khẩn cầu, lại nên thực hành mười lăm việc:
1. Không sát sinh.
2. Phóng sinh.
3. Không trộm cắp.
4. Bố thí cho người khác.
5. Không dâm dục.
6. Tránh xa hương và sắc.
7. Không lừa dối.
8. Nói lời ngay thẳng an lành.
9. Không uống rượu.
10. Không tặng rượu cho người khác.
11. Giúp đỡ những người ốm yếu không để họ chết oan uổng.
12. Gặp người sắp sinh thì gia tâm từ bi khiến họ được vẹn toàn.
13. Nghe nhận thệ nguyện rộng lớn, dùng giáo lý chân chánh để giáo hóa tất cả không để sót mất.
14. Có ai đến quy y thì bình đẳng dạy bảo ứng hợp với pháp luật khiến chẳng sai trái.
15. Dùng phương tiện thiện xảo làm tối thượng, bố thí khắp dân chúng, trọn đời không biếng nhác.
Tu hành mười lăm giới này chẳng được buông bỏ, đây cũng là ứng hợp với giáo pháp định ý, chắc chắn không sót mất, về sau mãi mãi được giải thoát.
Thiện Minh thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có người phàm phu bị tội báo đời trước lôi kéo, ở nơi không an ổn, bị cột trói quản thúc, nhưng có chí nguyện đối với định ý thành cụ quang minh này nhưng lại không được làm theo ý muốn, muốn tu học định ý này thì phải làm sao?
Đức Phật bảo: Này Thiện Minh! Người phàm phu ấy nếu chí tâm muốn học thì cũng như trên đã nói, biên chép kinh này, xây dựng lầu đài, đốt hương kính lễ, suốt ba thời nên tu hành thêm mười việc:
1. Giữ gìn năm giới không thiếu khuyết.
2. Nên dùng thời gian nhàn hạ mà siêng năng tụng niệm định ý này.
3. Tuy làm nhiều việc mà trong tâm luôn nhớ nghĩ khiến chẳng quên mất.
4. Dù ở nơi chốn khổ sở lao nhọc, nên biết là do hành động đời trước đã tạo mà không hề sân hận.
5. Nếu ở nơi không có hình Tượng Phật, không thể xa lìa chúng xấu ác thì tâm luôn ghi nhớ, hướng về bốn phương làm lễ, như đối trước Đức Phật không khác.
6. Cẩn trọng nhu nhuyến, điều hòa tâm ý, khiêm hạ đối với tất cả.
7. Mọi việc làm đều tới nơi tới chốn, không hư dối.
8. Làm lợi ích cho bạn bè, không yêu quý sức lực của mình.
9. Nếu thấy người già yếu, tật bệnh khổ sở thì nên thương xót giúp đỡ, luôn chí tâm không giả dối.
10. Nên quy y ngôi Tam Bảo không hề quên mất.
Đó là mười việc. Người phàm phu tuy ở nơi chốn khốn khổ, nên tu hành mười việc này, chớ bỏ sót, chớ biếng nhác, cũng khiến giáo pháp định ý này mãi mãi không mất, về sau được giải thoát lâu dài.
Thiện Minh bạch Phật.
Bạch Thế Tôn! Nếu có hiền nữ sinh ở trong dòng họ có duyên nghiệp với việc tại gia, không thể xa lìa, muốn học định ý thành cụ quang minh này thì phải làm sao?
Đức Phật bảo: Này Thiện Minh! Người nữ có nhân duyên tại gia, chí tâm muốn học định ý này thì cũng như trước đã nói, nên biên chép kinh này, xây dựng lầu gác, cúng dường cờ hoa, đốt hương lễ bái, cúi đầu sát đất, trong ngày từ khi gà gáy, chia làm ba thời luôn lễ bái không gián đoạn, chí tâm cẩn trọng, thường nguyện xa lìa thân nữ, tâm đoạn dứt ái dục, thường như vây không hề biếng nhác, lại nên thực hành hai mươi việc:
1. Giữ mười lăm giới của Bậc Hiền sĩ như trên, cùng mười giới của phàm phu không hề thiếu sót.
2. Trừ sạch tâm đố kỵ.
3. Giảm bớt sự ưa thích vòng đeo trang sức.
4. Bỏ trang sức phấn sáp.
5. Không buông lung.
6. Y phục đơn giản, không xa hoa cầu kỳ.
7. Chăm lo trong nhà, dùng tâm từ để đối xử.
8. Dịu dàng sai bảo tôi tớ, không dùng hình phạt đau đớn.
9. Giúp người neo đơn, cho y phục bình đẳng.
10. Hiếu thuận với bậc trưởng thượng, nhân từ với người dưới.
11. Nói nhỏ nhẹ từ tốn, nên tự xét mình.
12. Khiêm nhường, thành thật, thường biết hổ thẹn.
13. Làm việc gì thì biết chắc việc ấy, dùng hương thơm tinh khiết để dâng cha mẹ chồng, cúng dường ngôi Tam Bảo và thầy bạn.
14. Đối với thân sơ thiện ác luôn từ bi bình đẳng, không có tướng về bốn niệm sai biệt này.
15. Nếu ở nơi phòng riêng hoặc ở nơi thanh vắng không có ai thì tâm cũng không nghĩ đến tham dục.
16. Đoan chánh, chuyên nhất, tâm luôn trụ nơi pháp.
17. Muốn bố thí làm phước báo tôn quý sau đó mới thực hành.
18. Tâm không tự chuyên nhất, thường dùng sự tùy thuận để nhắc nhở bản thân mình, khiến như chánh pháp.
19. Trọn đời không có ý niệm tà nhìn qua tường thấp.
20. Đứng ngồi, nói năng không hề đùa giỡn, thường ứng hợp với pháp luật không hề xem nhẹ.
Đó là hiền nữ tại gia tu hành pháp chánh định, như vậy chớ để sai sót, công đức được dần dần đầy đủ, về sau được giải thoát lâu dài.
Thiện Minh thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có người nữ dòng họ thấp hèn, tánh thích làm điều thiện nhưng nhà nghèo khổ, làm việc cực nhọc, lo lắng về y phục, ẩm thực, chẳng được tự do, bên trong nhàm chán tội lỗi muốn mau được giải thoát, nghe pháp định ý thành cụ quang minh thanh tịnh tôn quý này, chí tâm muốn tu hành thì nên làm thế nào?
Đức Phật nói: Này Thiện Minh! Những người nữ ở nhà nghèo nàn muốn tu học định này, tuy không thể thực hành đầy đủ pháp chân thật này nhưng nên tu tập theo mười việc sau, chớ làm trái:
1. Gần gũi bạn hiền, giữ gìn năm giới không hề thiếu sót.
2. Tuy bị đói lạnh nhưng nhẫn nhục không hề sát sinh trộm cắp, tự mình làm cho no ấm.
3. Tuy ở một mình vẫn không tà dâm, luôn rèn luyện tâm ý.
4. Tuy nghèo khổ vẫn nhẫn chịu không mong cầu tài sản.
5. Đối với rượu, thức ăn, ca múa nên nhẫn chịu không hề nhớ đến.
6. Tôn kính thực hành pháp định này.
7. Luôn thực hành năm tâm thiện: Nhớ nghĩ tâm bố thí.
Tâm cung kính.
Tâm lễ tiết.
Tâm khiêm hạ đối với tất cả.
Tâm hàng phục các trạng thái.
1. Tuy đang làm việc nhưng tâm luôn nhớ nghĩ đến pháp này không biếng nhác.
2. Sáu ngày chay nên vào Tháp lễ bái ngôi Tam Bảo.
3. Tuy không có tiền của để bố thí nhưng thường đích thân quét dọn tháp miếu, đem nước sạch cúng dường chúng Tăng, tắm rửa sạch sẽ dùng sức lực để bố thí, siêng năng không nhàm chán.
Đó là mười việc mà người nữ ở nhà nghèo khó nên tu tập, không hề biếng nhác, thời được cao vời, sinh ra liền gặp Phật, thường gặp pháp định ý, về sau được giải thoát lâu dài.
Đức Phật bảo: Này Thiện Minh! Như Lai đã giảng nói rõ về bốn loại giới pháp của hiền nữ phàm phu, hiền nữ quý tộc, hiền nữ dòng họ thấp hèn và những ai ưa thích hạnh này, nêu đích thân thực hành không thiếu sót thì phước đức của người ấy khó ví dụ được.
Này Thiện Minh! Ví như có người dùng bảy báu đầy khắp mười phương lên đến tầng Trời hai mươi tám để bố thí, trăm ngàn kiếp không ngừng nghỉ, so với công đức của bốn hạng người tu hành bốn phẩm pháp của định ý thành cụ quang minh này thì phước đức người tu hành lớn hơn vạn ức lần.
Vì sao?
Vì phước bố thí ấy có chấm dứt, có khổ đau, có đến đi, có phiền não, có ăn uống, tu hành định ý thành cụ quang minh này thì không có năm việc trên, tịch nhiên thanh tịnh, diệt trừ tất cả. Đây gọi là pháp tôn quý bậc nhất, là thù thắng vậy.
Này Thiện Minh! Nên giảng nói rộng rãi giới này, khiến cho tất cả đều được nghe nhận, thọ trì theo, hàng Bồ Tát cũng nên khuyến khích, ủng hộ họ.
Đức Phật bảo: Này Thiện Minh! Sau khi Như Lai diệt đô, có người tu hành định ý Thành cụ quang minh này và biên chép, thọ trì, cúng dường, đảnh lễ Kinh này thì sẽ có mười hai vị Đại Thiên Thần ủng hộ, khiến không bị quấy nhiễu, luôn giàu có, ở nơi yên ổn, không bị kẻ ác làm thương tổn.
Nay Như Lai sẽ nói tên các vị Thần này cho ông, những ai bị tai nạn lửa, nước, giặc giã, đao binh mà đọc Tụng Kinh Điển này thì không bị nguy hiểm làm hại, mười hai vị Thiên Thần liền đến ủng hộ, không bao giờ bị tai ương. Như Lai không nói sai vậy, nên giảng nói kinh này rộng rãi khiến tất cả chúng sinh được đọc tụng, tu tập.
Mười hai vị Thần là: Thần Đại Hộ, Thần Phước Cứu, Thần Hựu Chúng, Thần Bất Ách, Thần Thiện Tướng, Thần Quang Minh, Thần Đạo Giới, Thần Bạt Khổ, Thần Đại Đô, Thần Độ Ách, Thần An Ẩn và Thần Phổ Tế.
Này Thiện Minh! Đó là mười hai vị Thần, họ lại nguyện với Như Lai là hộ trì người nào tu tập pháp này, nơi nào có pháp định ý thành cụ quang minh này lưu hành thì họ sẽ khiến có năm việc thanh tịnh:
1. Khiến tòa cao tôn trí Kinh này được thanh tịnh.
2. Đốt hương quét đất khiến được thanh tịnh.
3. Y phục được thanh tịnh.
4. Tâm, miệng, ý thường thanh tịnh.
5. Khi đọc Tụng Kinh, trước cúng nước trong sạch, rửa tay súc miệng thường khiến thanh tịnh.
Đó là năm việc.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Như Lai đem pháp định ý Thành cụ quang minh này giao phó cho ông, khéo biên chép Kinh này cẩn thận chớ để thêm bớt, siêng năng giáo hóa tất cả chúng sinh khiến họ mau được giải thoát.
Này A Nan! Kinh này rất khó gặp.
Vì sao?
Vì đây là kinh cốt yếu phát xuất từ sáu pháp Ba la mật, mới được thể nhập chánh định, là một trăm ba mươi lăm hạnh này, trong đây có lời giáo hóa, có lời dạy khiêm nhường, có lời dạy nhẫn nhục, có lời dạy lễ tiết, có lời dạy về các pháp thiện, có lời dạy về pháp không cho đến chốn diệt độ, có đầy đủ tất cả.
Tướng tốt và năng lực trí tuệ của thân Phật đều từ pháp này phát ra, là pháp tôn quý, cao thượng, đoạn trừ sinh tử, gọi là pháp không thể so sánh được. Như Lai lại giao phó cho ông, là đem sự chân thật để trao, nên thông đạt điều này, Như Lai xuất hiện ở đời khó có thể gặp được, pháp chân chánh cũng khó được gặp.
Ông chớ nên xa lìa.
Tôn Giả A Nan thưa: Con xin nhận lời Đấng Thiên Tôn dạy bảo.
Đức Phật giảng nói Kinh này xong, các vị Bồ Tát từ mười phương và các Thiên Thần đến kính lễ Đức Phật rồi hoan hỷ trở về nước của mình.
Chúng Bồ Tát, La Hán, Trời, Rồng, Quỷ Thần cùng bốn bộ chúng ở cõi Ta Bà nghe Kinh này xong rất đỗi vui mừng, tất cả đều đảnh lễ Phật sát đất và lui ra.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
MỘT LỜI ÁC Ý, TRĂM NĂM CHỊU KHỔ
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Năm Mươi Mốt - Pháp Hội Tự Tại Vương Bồ Tát - Phần Năm
Phật Thuyết Kinh Lục độ Tập - Chương Một - Bố Thí độ Vô Cực - Kinh Số bốn
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tứ Chủng Thiền
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Nan đề - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật - Phần Năm