Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi - Phẩm Phạm Hạnh - Phần Bảy

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

 PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI

PHẨM PHẠM HẠNH  

PHẦN BẢY  

Này thiện nam tử! Đây là thế gian chẳng biết chẳng thấy mà là chỗ thấy biết của Bồ Tát. Nếu hàng đệ tử của ta thọ trì đọc tụng biên chép, diễn thuyết Kinh Đại Niết Bàn mà có phá giới.

Bị người quở trách khinh tiện hủy nhục và nói rằng: Nếu tạng bí mật của Phật, Kinh Đại Niết Bàn có oai lực, sao lại làm cho người hủy phá giới cấm. Nếu người thọ trì Kinh Niết Bàn này hủy phá giới cấm, nên biết Kinh này là không có oai lực nếu không oai lực dầu có đọc tụng cũng không lợi ích.

Do vì khinh hủy Kinh Đại Niết Bàn nên làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh này mà hủy phá giới cấm là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma chẳng phải đệ tử của ta. Người như vậy ta cũng chẳng cho thọ trì Kinh này. Thà khiến họ chẳng thọ chẳng trì, chẳng tu, chớ chẳng để họ hủy phá giới cấm mà tho trì tu tập.

Này thiện nam tử! Nếu đệ tử ta thọ trì đọc tụng thơ tả diễn thuyết Kinh Niết Bàn phải chánh thân tâm cẩn thận chớ cợt đùa, cử động khinh tháo thân không cợt đùa tâm không khinh động. Tâm cầu pháp có thời gọi là khinh động thân tạo các nghiệp gọi là cợt đùa.

Nếu đệ tử ta cầu pháp có, tạo các nghiệp, thời không nên thọ trì Kinh Điển Đại Thừa Đại Niết Bàn này.

Nếu người như vậy mà thọ trì Kinh này, sẽ làm cho nhiều người khinh chê mà nói rằng: Nếu Kinh Đại Niết Bàn, tạng bí mật của Phật có oai lực, sao lại làm cho người cầu pháp có, gây tạo các nghiệp. Nếu người trì Kinh này cầu pháp có, gây tạo các nghiệp do đó biết rằng Kinh này không có oai lực không oai lực nên thọ trì cũng không lợi ích gì.

Do khinh hủy Kinh Đại Niết Bàn lại làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh này nếu cầu pháp có, gây tạo các nghiệp, họ là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma không phải đệ tử ta.

Này thiện nam tử! Nếu hàng đệ tử của ta thọ trì đọc tụng thơ tả diễn thuyết Kinh Đại Niết Bàn này, không nên: thuyết pháp phi thời, thuyết pháp phi xứ, không thỉnh mà thuyết pháp, khinh tâm mà thuyết pháp, chỗ nào cũng thuyết pháp, tự khen mình mà thuyết pháp, khinh người khác mà thuyết pháp, diệt Phật mà thuyết pháp, hưng thạnh pháp thế gian mà thuyết pháp.

Nếu đệ tử của ta thọ trì Kinh này mà thuyết pháp phi thời cho đến thuyết pháp để hưng thạnh pháp thế gian, mọi người sẽ khinh chê họ.

Vì khinh chê Kinh Đại Niết Bàn nên làm cho vô lượng chúng sanh đọa địa ngục. Người thọ trì Kinh này mà như vậy thời là ác tri thức của chúng sanh, là quyến thuộc của ma, không phải đệ tử của ta.

Này thiện nam tử! Nếu người thọ trì Kinh này, muốn giảng thuyết Đại Niết Bàn, muốn giảng thuyết Phật Tánh, muốn giảng thuyết tạng bí mật của Như Lai, muốn giảng thuyết đại thừa, muốn giảng thuyết Kinh Phương Đẳng, muốn giảng thuyết Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa, muốn giảng thuyết giải thoát, thấy Phật Tánh thời trước phải thanh tịnh thân của mình.

Vì thân thanh tịnh thời người không quở trách. Vì không quở trách nên làm cho vô lượng chúng sanh có lòng tin thanh tịnh đối với Kinh Đại Niết Bàn. Vì có lòng tin nên càng kính Kinh này, nếu được nghe một kệ, một câu, một chữ và người thuyết pháp, thời phát đặng tâm vô thượng bồ đề.

Nên biết người này thật là thiện tri thức của chúng sanh, là đệ tử của Phật. Đây gọi là Bồ Tát chẳng phải thế gian.

Này thiện nam tử! Đây gọi là thế gian chẳng biết chẳng thấy mà là chỗ thấy chỗ biết của Bồ Tát.

Này thiện nam tử! Thế nào là tất cả thế gian chẳng thấy chẳng biết, mà là chỗ thấy chỗ biết của Bồ Tát?

Đây là nói sáu chánh niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.

Thế nào là niệm Phật?

Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thường chẳng biến đổi, đầy đủ mười trí lực, bốn môn Vô Sở Úy, Đại Sư Tử Hống, gọi là đại Sa Môn, đại Bà La Môn, đại tịnh.

Rốt ráo đến nơi bờ kia, đấng Vô Năng Thắng, đấng Vô Kiến Đảnh, không có bố úy, chẳng kinh chẳng động, riêng một không bạn vô sư tự ngộ, trí mau lẹ, trí lớn, trí lanh lợi, trí sâu, trí giải thoát, trí bất cộng, trí rộng khắp, trí rốt ráo, trí bảo thành tựu, tượng Vương trong loài người, Ngưu Vương trong loài người, Long Vương trong loài người, trượng phu trong loài người.

Liên Hoa trong loài người, hoa Phân Đà Lợi, Điều Ngự Nhân Sư, là đại thí chủ bậc thầy Đại Pháp, hiệu Đại Pháp Sư, vì biết pháp, vì biết nghĩa, vì biết thời, vì tri túc, vì tri ngã, vì biết đại chúng, vì biết chủng tánh của chúng sanh, vì biết căn tánh lợi độn, vì nói trung đạo, do những cớ này nên hiệu là đại Pháp Sư.

Thế nào gọi là Như Lai?

Như chỗ thuyết pháp của Chư Phật quá khứ chẳng biến đổi. Chư Phật quá khứ vì độ chúng sanh nên nói mười hai Bộ Kinh.

Đức Như Lai cũng vậy nên hiệu là Như Lai. Chư Phật Thế Tôn từ sáu môn Ba la mật, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, mười một pháp không mà đến Đại Niết Bàn.

Đức Như Lai cũng vậy, nên gọi Phật là Như Lai. Chư Phật Thế Tôn vì chúng sanh nên tùy nghi phương tiện khai thị Ba Thừa, thọ mạng vô lượng không thể tính đếm. Đức Như Lai cũng vậy nên gọi Phật là Như Lai.

Thế nào là Ứng?

Pháp thế gian đều gọi là oan gia, vì Đức Như Lai ứng phá hoại pháp ấy nên gọi là ứng. Luận về tứ ma là oan gia của Bồ Tát, Chư Phật Như Lai lúc làm Bồ Tát, có thể dùng trí huệ phá hoại bốn thứ ma nên gọi là Ứng.

Lại ứng gọi là viễn ly, lúc làm Bồ Tát nên phải xa lìa vô lượng phiền não nên gọi là ứng. Lại ứng gọi là lạc, Chư Phật quá khứ lúc làm Bồ Tát dầu trong vô lượng vô số kiếp vì chúng sanh mà thọ những khổ não, nhưng trọn không khi nào là không vui, mà thường vui đó nên gọi là ứng.

Và lại tất cả Nhân Thiên nên đem các thứ hoa, hương, chuỗi ngọc, tràng phan, kỹ nhạc để cúng dường đó nên gọi là Ứng Cúng.

Thế nào gọi là Chánh Biến Tri?

Chánh là nói chẳng điên đảo. Biến tri là thông đạt tất cả bốn thứ điên đảo.

Lại chánh là nói khổ hạnh. Biến tri là biết nhân nơi khổ hạnh quyết định có quả khổ.

Lại chánh là nói trong thế gian. Biến tri là rốt ráo quyết định biết tu tập trung đạo thời đặng vô thượng bồ đề.

Lại chánh nói có thể đếm, có thể lường có thể cân. Biến tri là chẳng thể đếm, chẳng thể lường, chẳng thể cân vì thế nên gọi Phật là Chánh Biến Tri.

Này thiện nam tử! Thanh Văn, Duyên Giác cũng có biến tri, cũng chẳng biến tri. Vì biến tri là nói ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới.

Thanh Văn, Duyên Giác cũng đặng biến tri, đây gọi là có biến tri. Giả sử hàng Nhị Thừa trong vô lượng kiếp quán sát một sắc ấm cũng chẳng thể biết được hết, do nghĩa này nên hàng Thanh Văn, Duyên Giác không có biến tri.

Thế nào là Minh Hạnh Túc?

Minh là nói đặng vô lượng quả lành. Hạnh là chân cẳng. Quả lành gọi là vô thượng bồ đề. Chân cẳng là nói giới huệ. Nương nơi chân giới huệ mà đặng vô thượng bồ đề, vì thế nên gọi là Minh Hạnh Túc.

Lại minh gọi rằng chú, hạnh gọi rằng kiết, túc gọi rằng quả, đây là nghĩa thế gian. Chú là nói giải thoát, kiết là vô thượng bồ đề, Quả là nói Đại Niết Bàn, vì thế nên gọi là Minh Hạnh Túc.

Lại Minh là quang, hạnh là nghiệp, túc là quả, đây là nghĩa thế gian. Quang là nói chẳng phóng dật, nghiệp là nói sáu môn Ba la mật, Quả là nói vô thượng bồ đề.

Và lại Minh là tam minh: Một là Bồ Tát minh, hai là Chư Phật minh, ba là vô minh minh. Bồ Tát minh là Bát Nhã Ba la mật.

Chư Phật minh là Phật nhãn, vô minh minh là rốt ráo không. Hạnh là trong vô lượng kiếp vì chúng sanh nên tu tập các nghiệp lành. Túc là thấy rõ Phật Tánh. Do nghĩa này nên gọi là Minh Hạnh Túc.

Thế nào là Thiện Thệ?

Thiện là cao, Thệ là chẳng cao, đây là nghĩa thế gian. Cao gọi là vô thượng bồ đề. Chẳng cao chính là tâm Như Lai.

Này thiện nam tử! Tâm nếu cao thời chẳng gọi là Như Lai, vì thế nên Như Lai gọi là Thiện Thệ.

Lại Thiện là thiện tri thức, Thệ: Là quả thiện tri thức, đây là nghĩa thế gian. Thiện tri thức là sơ phát tâm, quả của thiện tri thức là Đại Niết Bàn.

Như Lai chẳng bỏ sự phát tâm tối sơ nên đặng Đại Niết Bàn, vì thế nên Như Lai hiệu là Thiện Thệ. Và lại Thiện gọi là tốt, Thệ gọi là có, đây là nghĩa thế gian. Tốt là nói thấy Phật Tánh, có là nói Đại Niết Bàn thiệt chẳng phải có, Chư Phật vì thế gian mà nói là có.

Như người đời thiệt không có con mà nói là có con, thiệt không có đạo mà nói là có đạo.

Nhân thuận theo thế gian mà nói là có Niết Bàn. Chư Phật Thế Tôn thành Đại Niết Bàn nên gọi là Thiện Thệ.

Thế nào là Thế Gian Giải?

Thế gian là nói Ngũ ấm, giải là rõ biết. Chư Phật khéo biết Ngũ ấm nên hiệu là Thế Gian Giải. Lại thế gian là nói ngũ dục, giải là chẳng tham đắm.

Chẳng tham đắm ngũ dục nên hiệu là Thế Gian Giải. Lại Thập Phương vô lượng vô số Thế Giới tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng biết chẳng thấy chẳng hiểu, Chư Phật đều biết đều thấy đều hiểu, vì thế nên Phật hiệu là Thế Gian Giải.

Lại thế gian là tất cả phàm phu, giải là biết nhân quả thiện ác của phàm phu, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được, duy Phật có thể biết nên Phật hiệu là Thế Gian Giải.

Lại thế gian là Liên Hoa, giải là nói chẳng ô nhiễm, đây là nghĩa thế gian. Liên Hoa là nói Như Lai, Đức Như Lai chẳng bị tám pháp thế gian làm ô nhiễm, nên Phật hiệu là Thế Gian Giải.

Lại Chư Phật Bồ Tát thấy rõ thế gian nên hiệu là Thế Gian Giải. Như nhân ăn mà đặng sống nên gọi ăn là mạng sống. Cũng vậy, Chư Phật và Bồ Tát vì thấy rõ thế gian nên hiệu là Thế Gian Giải.

Thế nào là Vô Thượng Sĩ?

Thượng Sĩ gọi là dứt, không chỗ dứt gọi là Vô Thượng Sĩ. Chư Phật Thế Tôn không có phiền não nên không chỗ dứt, vì thế Phật hiệu là Vô Thượng Sĩ.

Lại Thượng Sĩ là nói tránh tụng, Vô Thượng Sĩ là không có tránh tụng. Như Lai không tránh tụng nên hiệu là Vô Thượng Sĩ.

Lại Thượng Sĩ là lời nói có thể phá hoại, Vô Thượng Sĩ là lời nói chẳng thể phá hoại. Lời nói của Như Lai không ai phá được nên hiệu là Vô Thượng Sĩ.

Lại Thượng Sĩ là nói bậc thượng tòa, Vô Thượng Sĩ là nói bậc Vô Thượng tòa. Chư Phật ba đời không có ai hơn nên hiệu là Vô Thượng Sĩ.

Lại nữa Thượng là mới, Sĩ La cũ.

Chư Phật Thế Tôn thể chứng Đại Niết Bàn không mới không cũ nên hiệu là Vô Thượng Sĩ.

Thế nào là Điều Ngự Trượng Phu?

Tự mình đã là trượng phu, lại điều phục trượng phu khác.

Này thiện nam tử! Như Lai thật chẳng phải trượng phu, cũng chẳng phải chẳng trượng phu, nhân điều phục trượng phu nên gọi Như Lai là trượng phu.

Tất cả nam nữ nếu đủ bốn pháp thời gọi là trượng phu:

Một là gần thiện tri thức.

Hai là có thể nghe pháp.

Ba là tư duy nghĩa.

Bốn là đúng như pháp tu hành.

Nếu nam nữ nào không có bốn pháp này thời chẳng được gọi là trượng phu. Vì thân dầu là trượng phu mà hành vi đồng như súc sanh.

Như Lai điều phục những nam nữ ấy nên Phật hiệu là Điều Ngự Trượng Phu.

Lại như điều khiển ngựa phàm có bốn cách: Một là chạm đến lông, hai là chạm đến da, ba là chạm đến thịt, bốn là chạm đến xương, tùy chỗ chạm đến vừa ý người điều khiển.

Cũng vậy, Như Lai dùng bốn cách điều phục chúng sanh:

Một là vì chúng sanh mà giảng thuyết về sanh khổ khiến lãnh thọ lời Phật, như cách chạm lông thời ngựa tuân theo ý người điều khiển.

Hai là giảng thuyết sanh tử bèn lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông da thời ngựa tuân theo ý người điều khiển.

Ba là giảng nói sanh cùng lão bệnh bèn lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông, da, thịt, thời ngựa tuân theo ý người điều khiển.

Bốn là giảng nói sanh, lão, bệnh và tử bèn lãnh thọ lời Phật, như chạm đến lông, da, thịt, xương, thời ngựa tuân theo ý người điều khiển.

Này thiện nam tử! Người điều khiển ngựa không có quyết định. Như Lai điều phục chúng sanh quyết định chẳng luống nên Phật hiệu là Điều Ngự Trượng Phu.

Thế nào là Thiên Nhân Sư?

Sư có hai hạng: Một là dạy điều lành, hai là dạy điều ác. Chư Phật và Bồ Tát thường đem pháp lành dạy bảo chúng sanh. pháp lành là nói thân, khẩu, ý đều lành.

Chư Phật Bồ Tát dạy bảo chúng sanh: Các người nên xa nghiệp chẳng lành nơi thân, vì nghiệp ác nơi thân là thứ có thể xa lìa, để được giải thoát, nên ta đem pháp này dạy các ngươi.

Nếu nghiệp ác chẳng thể xa lìa để được giải thoát, thời ta trọn chẳng dạy các ngươi. Các chúng sanh nếu lìa ác nghiệp rồi thời không bị đọa ba ác đạo. Do lìa ác nên thành vô thượng bồ đề đặng Đại Niết Bàn.

Vì thế nên Chư Phật và Bồ Tát thường đem pháp lành này giáo hoá chúng sanh. Khẩu và ý cũng như vậy. Vì thế Phật là Vô Thượng Sư.

Lại xưa Chư a đặng đạo nay đã đặng đạo đó, đem đạo đã đặng dạy cho chúng sanh.

Từ trước tới nay chư a tu phạm hạnh nay đã tu xong, đem chỗ tu của mình dạy cho chúng sanh.

Tự phá vô minh, lại phá vô minh cho chúng sanh.

Tự đặng tịnh nhãn lại làm cho chúng sanh cũng đặng tịnh nhãn.

Tự biết rõ hai đế lý lại vì chúng sanh mà giảng thuyết hai đế lý.

Đã tự giải thoát lại vì chúng sanh nói pháp giải thoát.

Tự qua khỏi sông lớn sanh tử không ngằn mé lại làm cho chúng sanh đều được qua khỏi.

Tự được vô úy lại dạy chúng sanh làm cho không còn sợ sệt.

Tự đã được Niết Bàn lại vì chúng sanh nói Đại Niết Bàn. Vì thế nên Phật hiệu là Vô Thượng Sư.

Thiên là nói ban ngày.

Trên Trời ngày dài đêm ngắn nên gọi là Thiên.

Lại: Thiên là nói không sầu não thường vui sướng nên gọi là Thiên.

Lại Thiên là nói đèn sáng có thể phá đen tối thành sáng suốt nên gọi là Thiên.

Cũng bởi có thể phá nghiệp ác tối tăm đặng nghiệp lành sanh lên Trời nên gọi là Thiên.

Lại vì kiết tường nên gọi là:

Thiên, Lại vì có ánh sáng nên gọi là Thiên.

Nhân là nói, là có thể nhiều suy nghĩ nghĩa lý.

Lại nhân là thân khẩu dịu dàng.

Lại nhân là nói kiêu mạn.

Lại nhân là nói có thể phá kiêu mạn.

Này thiện nam tử! Chư Phật dầu là Đại Sư Vô Thượng của tất cả chúng sanh, nhưng trong Kinh nói là Thiên Nhân Sư, vì trong các loài chúng sanh chỉ có người cùng Trời có thể phát tâm vô thượng bồ đề, có thể tu mười nghiệp đạo lành, có thể đặng quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, quả Bích Chi Phật, chứng đặng vô thượng bồ đề. Vì thế nên Phật hiệu là Thiên Nhân Sư.

Thế nào là Phật, Phật gọi là giác, đã tự giác ngộ lại có thể giác ngộ người khác. Như có người rõ biết kẻ giặc cướp, thời giặc cướp không hại được.

Đại Bồ Tát có thể rõ biết tất cả vô lượng phiền não. Vì rõ biết nên các phiền não không làm não được. Do đây nên gọi là Phật. Do vì giác ngộ nên chẳng sanh, chẳng lão, chẳng bệnh, chẳng tử, do đây gọi là Phật.

Phật hiệu là Bà Dà Bà, Bà Dà là phá, Bà là phiền não. Có thể phá phiền não nên hiệu Bà Dà Bà.

Lại có thể thành tựu các pháp lành, lại có thể hiểu rõ nghĩa của các pháp lại có công đức lớn không ai hơn, lại có tiếng đồn khắp mười phương, lại có thể bố thí tất cả, lại trong vô lượng A tăng kỳ kiếp lìa nữ căn.

Này thiện nam tử! Hoặc nam hoặc nữ có thể niệm Phật như vậy, lúc đi đứng, lúc ngồi nằm, hoặc ban ngày, hoặc ban đêm, lúc tối, lúc sáng, thường đặng chẳng lìa thấy Phật Thế Tôn.

Này thiện nam tử! Cớ sao gọi rằng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri nhẫn đến Bà Dà Bà mà có vô lượng công đức cùng tiếng tăm lớn như vậy?

Đại Bồ Tát trong vô lượng vô số kiếp trước, cung kính cha mẹ, Hòa Thượng Sư Trưởng, Thượng Tọa, Trưởng Lão. Trong vô lượng kiếp thường vì chúng sanh mà thật hành hạnh bố thí, trì tịnh giới, tập nhẫn nhục, siêng tinh tấn, thiền định, trí huệ, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vì thế nên ngày nay đặng ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân kim cương.

Và lại Bồ Tát trong vô lượng vô số kiếp trước tu tập ngũ căn: Tín, niệm, tấn, định, huệ, cung kính cúng dàng các bậc Sư Trưởng, thường vì pháp, chẳng vì ăn. Bồ Tát nếu trì mười hai loại Kinh, hoặc đọc tụng, thường muốn cho chúng sanh đặng giải thoát an ổn vui sướng, trọn chẳng vì mình.

Tại sao vậy?

Vì Bồ Tát thường tu tâm xuất thế và tâm xuất gia, lại thường tu tâm vô vi, tâm vô tránh, tâm vô cấu, tâm vô phược, tâm vô thủ, không tâm che đậy, không tâm vô ký, không tâm sanh tử, không tâm nghi, không tâm tham, không tâm sân, không tâm si, không tâm kiên mạn, không tâm uế trược, không tâm phiền não, không tâm khổ.

Tu tâm vô lượng, tâm quảng đại, tâm hư không, tâm không, không tâm không, không tâm chẳng điều phục, không tâm chẳng hộ trì, không tâm che giấu, không tâm thế gian, tâm thường định, tâm thường tu, tâm thường giải thoát, tâm không báo đền, tâm không nguyện cầu, tâm nguyện lành, tâm không nói năng, tâm nhu nhuyến, tâm chẳng trụ.

Tâm tự tại, tâm vô lậu, tâm đệ nhất nghĩa, tâm bất thối, tâm vô thượng, tâm chánh trực, tâm không dua vạy, tâm không đa thiểu, tâm khôn gương ngạnh, tâm không phàm phu, không tâm Thanh Văn, không tâm Duyên Giác, tâm biết lành, tâm biết cõi, tâm biết sanh cõi nào, tâm biết ở cõi nào, tâm biết cõi tự tại.

Vì ngày trước tu những tâm này nên nay đặng mười trí lực, bốn vô sở úy, đại từ bi, tam niệm xứ, thường, lạc, ngã, tịnh, do đây hiệu là Như Lai nhẫn đến Bà Dà Bà. Đây gọi là Đại Bồ Tát niệm Phật.

Thế nào là Đại Bồ Tát niệm pháp?

Đại Bồ Tát suy nghĩ giáo pháp của Chư Phật nói ra rất vi diệu hơn tất cả. Do pháp này có thể làm cho chúng sanh đặng quả hiện tại, chỉ có chánh pháp này không thuộc thời gian, pháp nhãn ngó thấy, nhục nhãn không thấy được. Chẳng thể dùng thí dụ để so sánh.

Chánh Pháp này chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng trụ, chẳng diệt, không thỉ, không chung, vô vi, vô số, kẻ không nhà thời làm nhà cho họ, kẻ không chỗ về thời làm chỗ về, không ánh sáng thời làm ánh sáng, không đến bờ kia thời làm cho đến bờ kia, chỗ không mùi thơm thời làm mùi thơm vô ngại, kẻ không nhìn thấy thời làm cho nhìn thấy rõ ràng.

Chánh Pháp này chẳng động, chẳng chuyển, chẳng dài, chẳng ngắn, dứt hẳn sự vui mà thường an vui, rốt ráo vi diệu, chẳng phải sắc đã dứt sắc thức mà cũng là thức, chẳng phải nghiệp đã dứt nghiệp, chẳng phải kiết sử, đã dứt kiết sử, chẳng phải vật đã dứt vật mà cũng là vật, chẳng phải giới đã dứt giới mà cũng là giới, chẳng phải hữu đã dứt hữu mà cũng là hữu.

Chẳng phải nhập đã dứt nhập mà cũng là nhập, chẳng phải nhân đã dứt nhân mà cũng là nhân, chẳng phải quả đã dứt quả mà cũng là quả, chẳng phải hư, chẳng phải thiệt dứt tất cả thiệt mà cũng là thiệt, chẳng phải sanh chẳng phải diệt dứt hẳn sanh diệt mà cũng là diệt.

Chẳng phải tướng chẳng phải phi tướng dứt tất cả tướng mà cũng là tướng, chẳng phải dạy dỗ, chẳng phải không dạy dỗ mà cũng là thầy dạy, chẳng phải sợ chẳng phải an dứt tất cả sợ mà cũng là an, chẳng phải nhẫn chẳng phải không nhẫn, dứt hẳn sự chẳng nhẫn mà cũng là nhẫn, chẳng phải dừng ở chẳng phải không dừng ở dứt tất cả dừng ở mà cũng là dừng ở trên đảnh tất cả pháp.

Chánh pháp này đều có thể dứt hẳn tất cả phiền não, thanh tịnhvô tướng, thoát hẳn các tướng, là chổ ở rốt ráo của vô lượng chúng sanh. Có thể diệt tất cả ngọn lửa sanh tử, là chỗ đi và ở của Chư Phật, là thường còn chẳng biến đổi. Đây gọi là Bồ Tát niệm pháp.

Thế nào là niệm Tăng?

Chư Phật Thánh Tăng đúng như pháp mà trụ thọ trì chánh pháp tùy thuận tu hành, chẳng thể nhìn thấy, chẳng thể cầm nắm, chẳng thể phá hoại, chẳng thể nhiễu hại, chẳng thể nghĩ bàn, là ruộng phước tốt của tất cả chúng sanh.

Dầu là ruộng phước nhưng không thọ, không lấy, thanh tịnh, không nhơ, vô lậu, vô vi, rộng khắp vô biên, tâm điều nhu bình đẳng không hai, không có loạn trựơc thường chẳng biến đổi. Đây gọi là niệm Tăng.

Thế nào là niệm giới?

Bồ Tát suy nghĩ có giới, chẳng phá, chẳng lậu, chẳng hoại, chẳng tạp, dầu không hình sắc mà nên hộ trì, dầu không xúc đối nhưng khéo tu phương tiện có thể đặng đầy đủ không có lỗi lầm, là chỗ mà Chư Phật Bồ Tát ngợi khen là nhân của Đại Thừa Phương Đẳng Đại Niết Bàn.

Như mặt đất, ghe thuyền, chuỗi ngọc, dòng họ tôn qúy, biển lớn, nước tro, nhà cửa, gươm đao, cầu kỳ, lương y, thuốc hay, thuốc A Dà Đà, như ý bảo châu, chân, mắt, cha mẹ, bóng mát, không ai trộm cướp được, không ai nhiễu hại được, lửa không cháy được, nước không trôi được, là thang bậc lên núi lớn, là tràng báu của Chư Phật Bồ Tát, nếu trụ nơi giới này thời đặng quả Tu Đà Hoàn.

Tôi cũng có phần này nhưng tôi chẳng cầu, vì nếu tôi đặng quả Tu Đà Hoàn thời không thể độ khắp tất cả chúng sanh.

Nếu trụ nơi giới này đặng vô thượng bồ đề, thời tôi cũng có phần, đây là chỗ mong muốn của tôi: Vì nếu đặng vô thượng bồ đề, tôi sẽ vì chúng sanh giảng thuyết diệu pháp để cứu độ. Đây là Đại Bồ Tát niệm giới.

Thế nào là niệm thí?

Đại Bồ Tát quán sát kỹ hạnh bố thí là nhân của vô thượng bồ đề. Chư Phật và Bồ Tát tu tập hạnh bố thí như vậy, tôi cũng tu tập như vậy. Nếu chẳng bố thí thời không thể trang nghiêm bốn bộ chúng. Bố thí dầu không thể rốt ráo dứt kiết sử, mà có từ phá hiện tại phiền não.

Do vì bố thí nên thường được chúng sanh trong vô lượng Thế Giới ở mười phương khen ngợi Đại Bồ Tát bố thí vật thực cho chúng sanh thời là bố thí mạng sống cho chúng sanh. Do quả báo bố thí nên lúc thành Phật thường chẳng biến đổi.

Do bố thí làm chúng sanh an vui nên lúc thành Phật đặng an vui. Lúc bố thí, Bồ Tát cầu của cải đúng pháp, chẳng lánh người kia để cho người này, vì thế nên lúc thành Phật đặng thanh tịnh Niết Bàn. Lúc bố thí, Bồ Tát làm cho chúng sanh chẳng cầu mà đặng, nên lúc thành Phật đặng ngã tự tại.

Vì bố thí làm cho người khác đặng sức khỏe, nên lúc thành Phật chứng đặng mười trí lực. Vì bố thí làm cho người đặng nói năng, nên lúc thành Phật đặng bốn môn vô ngại. Chư Phật và Bồ Tát tu tập hạnh bố thí này làm nhân Niết Bàn, tôi cũng tu tập hạnh bố thí như vậy để làm nhân Niết Bàn. Nói rộng hạnh bố thí như trong Kinh Tạp Hoa.

Thế nào là niệm Thiên?

Có Cõi Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến Cõi Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng. Nếu có tín tâm đặng sanh Cõi Trời Tứ Thiên Vương v.v… tôi cũng có phần.

Nếu giới, đa văn, bố thí, trí huệ đặng sanh Cõi Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến Cõi Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, tôi cũng có phần nhưng chẳng phải chỗ mong muốn của tôi. Vì Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến Trời Phi Phi Tưởng đều là vô thường.

Vì vô thường nên có sanh già bệnh chết, do lẽ này nên chẳng phải là chỗ tôi mong muốn. Như ảo thuật biến hoá phỉnh gạt người ngu, người trí không bị lầm. Phàm phu ngu mê ham muốn Cõi Trời Tứ Thiên Vương nhẫn đến Trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng. Tôi chẳng đồng với phàm phu.

Tôi từng nghe có Trời đệ nhất nghĩa, chính là Chư Phật và Bồ Tát thường chẳng biến đổi. Vì thường trụ nên chẳng có sanh, lão, bệnh, tử.

Tôi vì chúng sanh mà cần cầu Trời đệ nhất nghĩa vì Trời đệ nhất nghĩa có thể làm cho chúng sanh dứt trừ phiền não, như cây như ý.

Nếu tôi có tín, niệm, tấn, định và huệ thời có thể đặng Trời đệ nhất nghĩa này. Tôi sẽ vì chúng sanh giảng thuyết phân biệt Trời đệ nhất nghĩa. Đây gọi là Đại Bồ Tát niệm Thiên.

Này thiện nam tử! Đây là thế gian chẳng biết chẳng thấy, mà là chỗ thấy biết của Bồ Tát.

Này thiện nam tử! Nếu đệ tử của ta cho rằng thọ trì đọc tụng biên chép diễn thuyết mười hai Bộ Kinh cùng với thọ trì đọc tụng biên chép diễn thuyết Kinh Đại Niết Bàn đồng nhau, nói như vậy không đúng nghĩa.

Vì Đại Niết Bàn là tạng bí mật rất sâu của tất cả Chư Phật Thế Tôn, đây thời là hơn tất cả. Do nghĩa này nên Kinh Đại Niết Bàn rất lạ, rất đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Tôi cũng biết Kinh Đại Niết Bàn là rất lạ, rất đặc biệt chẳng thể nghĩ bàn. Phật, Pháp, Tăng chẳng thể nghĩ bàn. Bồ Tát, bồ đề, Đại Bát Niết Bàn cũng chẳng thể nghĩ bàn.

Bạch Thế Tôn! Do nghĩa gì lại nói Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn?

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát không ai giáo hóa mà có thể tự phát tâm bồ đề, đã phát tâm rồi tinh tấn siêng tu. Giả sử lửa lớn đốt cháy thân thể, trọn chẳng vì cầu cứu mà bỏ tâm niệm pháp.

Vì Đại Bồ Tát thường tự suy nghĩ: Tôi trong vô lượng vô số kiếp hoặc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trong loài người, trên Trời, bị các thứ lửa kiết sử đốt cháy, chưa từng đặng một pháp quyết định, pháp quyết định là vô thượng bồ đề.

Nay tôi vì vô thượng bồ đề trọn chẳng tiếc thân mạng, dầu đến phải nát thân như vi trần, tôi trọn chẳng buông bỏ hạnh tinh tấn siêng tu. Vì tâm tinh tấn bèn là nhân vô thượng bồ đề.

Này thiện nam tử! Bồ Tát này lúc chưa thấy vô thượng bồ đề đã có thể chẳng tiếc thân mạng như vậy, huống là đã thấy. Do đây nên Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.

Lại Đại Bồ Tát thấy sanh tử có vô lượng tội khổ, chẳng phải hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Dầu biết sanh tử có vô lượng tội khổ, nhưng vì chúng sanh ở trong đó chịu khổ mà chẳng sanh tâm nhàm lìa. Do đây nên gọi là Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn.

Đại Bồ Tát vì chúng sanh nên dầu ở trong địa ngục chịu khổ nhưng vui như Đệ Tam Thiền. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Ví như nhà trưởng giả phát hỏa, trưởng giả xem thấy liền bỏ nhà chạy ra. Các con của trưởng giả ở sau chưa thoát khỏi nạn lửa.

Trưởng giả vì các con nên trở vào nhà để cứu, chẳng đoái đến họan nạn nguy hiểm. Cũng vậy, Đại Bồ Tát dầu biết sanh tử nhiều tội khổ, nhưng vì cứu chúng sanh nên ở trong sanh tử mà chẳng nhàm. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Vô lượng chúng sanh phát tâm bồ đề, thấy trong sanh tử nhiều tội khổ liền thối tâm bồ đề, hoặc làm Thanh Văn hoặc làm Duyên Giác.

Nếu Bồ Tát được nghe Kinh Đại Niết Bàn này thời trọn chẳng thối thất tâm bồ đề. Bồ Tát này dầu chưa đến bậc Bất Động Địa, nhưng tâm bền chắc không thối thất. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Như có người nói rằng tôi có thể tự lội qua khỏi biển lớn.

Người nói như vậy có thể nghĩ bàn được chăng?

Bạch Thế Tôn! Lời nói như vậy hoặc có thể nghĩ bàn, hoặc chẳng thể nghĩ bàn. Vì nếu là người lội qua khỏi biển lớn thời chẳng thể nghĩ bàn. Còn nếu A Tu La lội qua thời là có thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Ta chẳng nói A Tu La, chỉ nói người.

Bạch Thế Tôn! Trong loài người cũng có hai hạng: Một là Thánh Nhân, hai là phàm phu. Nếu phàm phu lội qua thời là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Thánh Nhân thời là có thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Ta nói phàm phu chẳng nói Thánh Nhân.

Bạch Thế Tôn! Nếu là phàm phu tự nói lội qua biển lớn được thời thiệt là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Phàm phu thiệt không thể lội qua biển lớn được. Bồ Tát đây thiệt có thể qua khỏi biển lớn sanh tử nên gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Nếu có người có thể dùng chỉ cọng sen treo núi Tu Di, thời có thể nghĩ bàn được chăng?

Bạch Thế Tôn! Không thể nghĩ bàn được.

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trong khoảng một niệm đều có thể tính lường tất cả sanh tử, nên lại gọi chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát trong vô lượng vô số kiếp thường quán sát sanh tử là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì chúng sanh phân biệt diễn thuyết thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu diễn thuyết như vậy nhưng chẳng phải là tà kiến. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Như người vào nước, nước chẳng trôi được, vào lửa, lửa chẳng cháy được. Như vậy thời chẳng thể nghĩ bàn. Cũng vậy, Đại Bồ Tát dầu ở sanh tử, nhưng chẳng bị sanh tử não hại. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Loài người có ba hạng: Thượng, trung và hạ.

Hạng người hạ lúc mới nhập thai nghĩ rằng: Nay tôi ở nhà tiêu đầy những hôi nhơ tối tăm. Lúc mới xuất thai nghĩ rằng nay tôi ra khỏi nhà tiêu, ra khỏi chỗ hôi nhơ tối tăm.

Hạng người bậc trung nghĩ rằng: Nay tôi vào trong rừng cây, trong sông sạch sẽ, trong nhà cửa. Lúc xuất thai cũng vậy.

Hạng người bậc thượng nghĩ rằng: Tôi lên điện, ở trong rừng hoa, cỡi ngựa, cỡi voi trèo lên núi cao. Lúc xuất thai cũng vậy.

Đại Bồ Tát lúc mới nhập thai, tự biết là nhập thai, lúc ở trong thai biết là ở, lúc xuất thai biết là xuất, trọn chẳng sanh tâm niệm tham sân, nhưng chưa lên bậc Sơ Trụ. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Này thiện nam tử! Vô thượng bồ đề thiệt không thể dùng thí dụ để so sánh, nhưng đều có thể nói. Đại Bồ Tát không có thầy thưa hỏi học tập, mà có thể đặng pháp vô thượng bồ đề. Đặng pháp này rồi tâm không lẫn tiếc, thường diễn thuyết cho chúng sanh. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

*** 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần