Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Năm

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương  

PHẨM HAI MƯƠI BỐN

PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT  

PHẦN NĂM  

Bạch Thế Tôn! Tôi nghe rằng chẳng đáp mới gọi là yên lặng mà đáp.

Nay cớ gì Đức Như Lai đáp mà lại gọi là yên lặng đáp?

Này thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói ra, để đó chẳng giải đáp nên gọi là yên lặng mà đáp.

Này thiện nam tử! Yên lặng đáp như vậy lại có hai thứ:

Một là ngăn dứt, hai là chẳng chấp trước.

Do nghĩa này nên được gọi là yên lặng đáp.

Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói, thế nào gọi rằng nhân Phật Tánh cũng là ba đời, quả cũng là ba đời, lại chẳng phải là ba đời?

Này thiện nam tử! Ngũ ấm có hai thứ: Một là nhân hai là quả. Nhân ngũ ấm này cũng là ba đời, quả ngũ ấm này cũng là ba đời mà cũng chẳng phải là ba đời.

Này thiện nam tử! Tất cả những kiết sử vô minh phiền não đều là Phật Tánh, vì là nhân của Phật Tánh. Từ vô minh, hành và các phiền não mà được ngũ ấm lành, đây gọi là Phật Tánh.

Từ ngũ ấm lành nhẫn đến chứng đặng vô thượng bồ đề.

Do đây nên trong Kinh ta nói trước rằng Phật Tánh của chúng sanh như sữa lẫn lộn trong máu. Máu là nói vô minh, hành v.v… tất cả những phiền não. Sữa là nói ngũ ấm lành.

Nên ta nói rằng do từ những phiền não và ngũ ấm lành mà chứng được vô thượng bồ đề như thân chúng sanh đều do từ tinh huyết mà được thành, Phật Tánh cũng như vậy.

Bậc Tu Đà Hoàn và Tư Đà Hàm dứt phần ít phiền não, Phật Tánh của những bậc này như sữa. Bậc A Na Hàm Phật Tánh như lạc. Bậc A La Hán Phật Tánh như sanh tô. Từ bậc Bích Chi Phật đến Thập Trụ Bồ Tát, Phật Tánh như thục tô.

Phật Tánh của Đức Như Lai như đề hồ.

Này thiện nam tử! Vì phiền não hiện tại chướng ngăn làm cho chúng sanh chẳng thấy được Phật Tánh. Như trong núi Hương Sơn có cỏ nhẫn nhục chẳng phải tất cả bò đều có thể được ăn. Phật Tánh cũng như vậy.

Đây gọi là phân biệt và giải đáp.

Bạch Thế Tôn! Năm thứ, sáu thứ, bảy thứ Phật Tánh, nếu là đến vị lai sẽ có, tại sao nói rằng người dứt căn lành có Phật Tánh?

Này thiện nam tử! Như các chúng sanh có nghiệp quá khứ, do nghiệp này mà chúng sanh thọ lấy quả báo hiện tại. Có nghiệp vị lai vì chưa sanh nên trọn chẳng thành quả. Chúng sanh hiện tại có phiền não, nếu không phiền não thời tất cả chúng sanh lẽ ra phải thấy rõ Phật Tánh hiện tại.

Do đây nên người dứt căn lành do phiền não đời hiện tại nên có thể dứt căn lành, do năng lực Phật Tánh đời vị lai nên căn lành sanh trở lại.

Bạch Thế Tôn! đời vị lai thế nào có thể sanh căn lành?

Này thiện nam tử! Như ngọn đèn và mặt trời dầu lại là vị lai mới sáng nhưng cũng phá tối tăm. Tánh vị lai có thể sanh ra chúng sanh, Phật Tánh đời vị lai cũng như vậy. Đây gọi là phân biệt mà giải đáp.

Bạch Thế Tôn! Nếu nói ngũ ấm là Phật Tánh tại sao nói rằng Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài.

Này thiện nam tử! Cớ sao quên mất như vậy.

Trước kia ta chẳng nói rằng Phật Tánh của chúng sanh  là trung đạo ư?

Bạch Thế Tôn! Thiệt ra tôi chẳng quên lời Phật dạy.

Chỉ vì chúng sanh chẳng hiểu được trung đạo này nên bạch hỏi Đức Phật như vậy.

Này thiện nam tử! Chỗ mà chúng sanh chẳng hiểu được chính đó là trung đạo. Có lúc hoặc có hiểu hoặc có người chẳng hiểu.

Ta vì muốn làm cho chúng sanh được hiểu rõ nên nói Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải trong chẳng phải ngoài.

Vì kẻ phàm phu cho rằng Phật Tánh ở trong ngũ ấm, như trái cây đựng trong chậu. Cũng có kẻ cho rằng rời ngoài ngũ ấm mà có Phật Tánh, như hư không.

Do đây nên Đức Như Lai nói nghĩa trung đạo: Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải là sáu căn ở trong, chẳng phải là sáu trần ở ngoài. Vì hiệp trong và ngoài nên gọi là trung đạo.

Do đây Đức Như Lai nói rằng: Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, nên gọi là trung đạo, đây là phân biệt mà giải đáp.

Này thiện nam tử! Thế nào gọi là chẳng phải trong chẳng phải ngoài?

Này thiện nam tử! Có người nói rằng Phật Tánh chính là ngoại đạo, vì các bậc Đại Bồ Tát trải qua vô lượng kiếp ở trong ngoại đạo, mà dứt phiền não điều phục tâm của mình, giáo hoá vô lượng chúng sanh, rồi sau mới được vô thượng Bồ Đề.

Hoặc có người cho rằng Phật Tánh chính là nội đạo. Vì Đại Bồ Tát dầu trong vô lượng kiếp tập học ngoại đạo, nhưng nếu rời nội đạo thời chẳng thể được vô thượng bồ đề.

Đức Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này nên nói rằng Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng gọi là trong ngoài, đây là trung đạo.

Có người nói Phật Tánh chính là Kim Cang của Như Lai: Ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Có người nói Phật Tánh chính là mười trí lực, bốn món vô sở úy, đại từ đại bi, tam niệm xứ, Thủ Lăng Nghiêm v.v… tất cả môn tam muội, vì do những tam muội này mà sanh ra thân Kim Cang ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp.

Đức Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói rằng Phật Tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này thiện nam tử! Có người cho rằng Phật Tánh chính là trong tâm khéo tư duy, vì rời khéo tư duy thời chẳng thể được vô thượng bồ đề. Có người nói rằng Phật Tánh chính là do nghe pháp với người khác, vì nghe pháp với người khác thời có thể trong tâm khéo tư duy, nếu chẳng nghe pháp thời không tư duy.

Do đây nên Như Lai vì ngăn hai sự chấp trước này nên nói Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Lại có người nói Phật Tánh là ngoài nghĩa là Đàn Ba la mật. Từ Đàn Ba la mật mà chứng được vô thượng bồ đề. Có người nói Phật Tánh là trong nghĩa là năm môn Ba la mật, vì rời năm môn này thời không có nhân quả Phật Tánh.

Do đây nên Như Lai vì ngăn hai thứ chấp trước này mà nói Phật Tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này thiện nam tử! Có người nói Phật Tánh ở nơi trong, như viên bảo châu trtên trán của lực sĩ, vì thường, lạc, ngã, tịnh như bảo châu. Có người nói Phật Tánh ở nơi ngoài như kho báu của bần nữ, vì do phương tiện mà được thấy.

Vì ngăn hai thứ chấp trước này nên Đức Như Lai nói rằng Phật Tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài cũng là trong ngoài, đây gọi là trung đạo.

Này thiện nam tử! Phật Tánh của chúng sanh chẳng phải có chẳng phải không. Vì Phật Tánh dầu là có nhưng chẳng phải như hư không. Vì hư không của thế gian dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể thấy được, còn Phật Tánh thời có thể thấy, do đây nên Phật Tánh dầu là có nhưng chẳng phải như hư không.

Phật Tánh dầu là không nhưng chẳng đồng như sừng thỏ. Vì lông rùa, sừng thỏ dầu dùng vô lượng thiện xảo phương tiện cũng chẳng thể sanh lên được, còn Phật Tánh thời có thể sanh. Do đây nên Phật Tánh chẳng phải có, chẳng phải không, cũng là có, cũng là không.

Thế nào gọi là có?

Tất cả chúng sanh đều có chẳng dứt chẳng diệt, dường như ngọn đèn, mãi đến chứng đặng vô thượng bồ đề, nên gọi là có Phật Tánh.

Thế nào gọi là không?

Tất cả chúng sanh hiện tại chưa có đủ tất cả Phật Pháp thường, lạc, ngã, tịnh nên gọi là không Phật Tánh.

Vì có và không hiệp lại chính là trung đạo, nên Đức Như Lai nói Phật Tánh chúng sanh chẳng phải có, chẳng phải không.

Này thiện nam tử! Như có người hỏi trong hột giống này có trái hay không?

Tất phải đáp rằng cũng có cũng không. Vì ngoài hột giống thời không thể sanh ra trái nên gọi là có, còn hột giống chưa mọc mọng nên gọi rằng không. Do nghĩa này nên nói cũng có cũng không.

Vì thời tiết có khác, nhưng thể chất của hột giống là một. Phật Tánh của chúng sanh cũng như vậy. Nếu nói rằng trong chúng sanh riêng có Phật Tánh thời không đúng nghĩa.

Vì chúng sanh là Phật Tánh, Phật Tánh là chúng sanh, chỉ do thời gian có tịnh và bất tịnh sai khác.

Này thiện nam tử! Nếu có người hỏi hột này có thể sanh trái chăng, trái này có thể sanh hột chăng?

Tất phải đáp rằng cũng sanh cũng chẳng sanh.

Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng trong sữa có chất lạc, nghĩa này như thế nào?

Này thiện nam tử! Nếu nói trong sữa có chất lạc thời là chấp trước. Nếu nói trong sữa không chất lạc thời là hư vọng. Tất phải nói rằng cũng có cũng không.

Từ sữa sanh ra chất lạc: Nhân là sữa, quả là lạc, đây gọi là có.

Màu sắc cùng mùi vị đều khác nhau, ăn dùng cũng chẳng đồng: Bệnh nóng thời dùng sữa, bệnh lạnh thời dùng lạc, sữa sanh bệnh lạnh, lạc sanh bệnh nóng.

Nếu nói trong sữa có tánh của lạc, sữa là lạc, lạc là sữa, hai thứ đồng một tánh, nhân duyên gì mà sữa lại có trước, còn lạc chẳng sanh ra trước?

Nếu có nhân duyên tại sao tất cả người đời chẳng nói?

Nếu không nhân duyên cớ sao lạc chẳng sanh ra trước?

Nếu lạc chẳng sanh ra trước thời ai làm ra có thứ tự: Sữa, lạc, sanh, tô, thục tô, đề hồ?

Do đây nên biết rằng chất lạc trước không có nay mới có, nếu là trước không nay có thời là pháp vô thường.

Này thiện nam tử! Nếu nói rằng trong sữa có chất lạc có thể sanh ra lạc, trong nước không có chất lạc nên chẳng sanh ra lạc, lời này không đúng nghĩa. Vì nước cỏ cũng có tánh chất của sữa và lạc, vì do nước cỏ mà sanh ra sữa và lạc.

Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, còn nước cỏ không chất lạc, lời này gọi là hư vọng, vì tâm chẳng bình đẳng nên gọi là hư vọng.

Này thiện nam tử! Nếu nói trong sữa quyết định có chất lạc, thời lẽ ra trong chất lạc cũng quyết định có chất sữa.

Cớ gì trong sữa sanh ra lạc mà trong lạc chẳng sanh ra sữa?

Nếu là không duyên cớ thời nên biết rằng chất lạc này trước không mà nay có. Do đây nên người trí phải nói rằng trong sữa chẳng phải có chất lạc chẳng phải không chất lạc.

Này thiện nam tử! Do đây nên Đức Như Lai từng nói trong Khế Kinh rằng: Nếu cho tất cả chúng sanh quyết định có Phật Tánh thời gọi là chấp trước, nếu cho không Phật Tánh thời gọi là hư vọng.

Người trí nên nói rằng: Phật Tánh của chúng sanh cũng có cũng không.

Này thiện nam tử! Do bốn pháp hòa hiệp mà có nhãn thức: Nhãn căn, sắc trần, ánh sáng, tác ý. Tánh nhãn thức này chẳng phải là nhãn căn, chẳng phải sắc trần, chẳng phải ánh sáng, chẳng phải tác ý. Do bốn pháp này hòa hiệp mà nhãn thức được sanh.

Nhãn thức như vậy là trước không mà nay có, đã có trở lại không. Do đây nên biết rằng nhãn thức vốn không có tánh. Chất lạc ở trong sữa cũng như vậy.

Nếu nói rằng trong nước không chất lạc nên chẳng xuất sanh ra lạc, còn trong sữa sanh ra lạc, nên trong sữa quyết định có chất lạc. Lời nói trên đây không đúng nghĩa.

Vì tất cả pháp: Nhân khác, quả khác, cũng chẳng phải một nhân sanh tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sanh. Như do bốn pháp sanh ra nhãn thức, chẳng nên nói rằng từ bốn pháp này phải sanh ra nhĩ thức hay tỷ thức.

Này thiện nam tử! Rời các phương tiện thời không thể được chất lạc trong sữa, cũng không thể từ chất lạc sanh ra chất tô. Do đây nên cần phải có phương tiện.

Người trí chẳng nên có quan niệm rằng rời các phương tiện mà được chất lạc từ nơi sữa. Được sanh tô cũng như vậy.

Do đó nên trong Khế Kinh ta từng nói: Vì nhân sanh nên có pháp, vì nhân diệt nên không pháp.

Này thiện nam tử! Như muối tánh chất là mặn có thể làm cho vật chẳng phải mặn thành mặn. Nếu vật chẳng phải mặn mà trước có tánh chất mặn, cớ sao người đời cho rằng chẳng phải là muối ư!

Nếu trước không mặn thời nên biết rằng trước không mà nay có, do các duyên khác mà thành mặn.

Nếu nói rằng tất cả vật chẳng mặn đều có tánh chất mặn vì quá ít nên chẳng biết, do tánh chất quá ít này nên muối có thể làm cho vật ấy thành mặn, nếu vốn không tánh chất mặn thời dầu có muối cũng chẳng thể làm thành mặn được.

Như hột giống tự nó có tứ đại, duyên nhờ tứ đại ngoài mà nó được tăng trưởng: Nẩy mầm, lên cây, đâm chồi ra lá, tánh chất của muối cũng vậy.

Lời nói trên đây không đúng nghĩa, vì vật chẳng mặn nếu trước đã có tánh chất mặn, muối lẽ ra cũng có tánh chất chút ít chẳng mặn.

Muối này nếu có hai tánh chất như vậy, duyên cớ gì rời vật chẳng mặn nó không thể riêng dùng?

Do đây nên biết muối vốn không có hai tánh.

Như muối không có hai tánh, tất cả vật chẳng mặn cũng không có hai tánh như vậy.

Nếu nói rằng tứ đại ngoài có năng lực làm tăng trưởng tứ đại trong.

Lời nói này không đúng nghĩa, vì là theo thứ tự mà nói chẳng phải từ phương tiện: Trong sữa được chất lạc, chất sanh tô, nhẫn đến tất cả pháp đều cũng chẳng phải do phương tiện mà được, tứ đại cũng như vậy. Nếu nói từ tứ đại trong tăng trưởng tứ đại ngoài.

Như trái Thi Lợi Sa, từ trước không hình chất, lúc gặp sao Mão mọc thời sanh trái lớn đủ năm tấc. Trái này thiệt chẳng do nơi tứ đại ngoài mà tăng trưởng.

Này thiện nam tử! Như mười hai Bộ Kinh của ta nói: Hoặc tùy tự ý mà nói, hoặc tùy tha ý mà nói, hoặc tùy tự tha ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tự ý mà nói?

Như năm trăm Tỳ Kheo hỏi Xá Lợi Phất: Bạch Đại Đức! Phật nói nhân của thân là những gì?

Xá Lợi Phất nói: Chư Đại Đức cũng đều được chánh giải thoát tự mình nên biết đó, duyên cớ gì mà hỏi như vậy?

Có Tỳ Kheo nói: Bạch Đại Đức! Lúc tôi chưa được chánh giải thoát, cho rằng vô minh là nhân của thân, lúc quán sát như vậy chứng được quả A La Hán.

Lại có Tỳ Kheo nói: Bạch Đại Đức! Lúc tôi chưa được chánh giải thoát, cho rằng thọ và vô minh là nhân của thân, lúc quán sát như vậy đặng quả A La Hán.

Hoặc có Tỳ Kheo nói: Hành, thức, danh, sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, ẩm thực, ngũ dục là nhân của thân.

Lúc đó năm trăm Tỳ Kheo mỗi người tự nói chỗ hiểu biết của mình rồi, bèn cùng nhau đến đảnh lễ chân Phật, đi nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một bên. Mỗi người tự đem chổ hiểu của mình như đã nói ở trên mà bạch với Phật.

Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Những Tỳ Kheo này ai là chánh thuyết, ai là không chánh thuyết.

Phật nói: Lành thay! Lành thay! Tất cả Tỳ Kheo đây đều là chánh thuyết cả.

Xá Lợi Phất bạch rằng: Thế Tôn! Ý của Đức Phật thế nào?

Này Xá Lợi Phất! Ta vì chúng sanh trong Cõi Dục mà nói cha mẹ là nhân của thân.

Những kinh như vậy gọi là tùy tự ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tha ý mà nói?

Như Bà Tra La trưởng giả đến hỏi ta rằng: Thưa Cù Đàm! Ngài có biết ảo thuật chăng?

Nếu biết ảo thuật thời Ngài là nhà đại ảo thuật, còn nếu không biết thời Ngài chẳng phải là Nhất thiết trí.

Phật nói: Này trưởng giả! Người biết ảo thuật có gọi là người ảo thuật chăng?

Trưởng Giả nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Người biết ảo thuật chính là người ảo thuật.

Phật nói: Này trưởng giả! Trong nước Xá Vệ Vua Ba Tư Nặc có gã Chiên Đà La tên là Khí Hứ, ông có biết không?

Trưởng Giả thưa rằng: Từ lâu tôi đã biết người ấy.

Phật nói: Từ lâu ông đã biết người ấy mà ông có thể chính là Chiên Đà La không?

Trưởng Giả thưa: Tôi dầu biết gã Chiên Đà La ấy, nhưng thân của tôi chẳng phải Chiên Đà La.

Phật nói:

Ông biết được nghĩa ấy: Người biết Chiên Đà La chẳng phải là Chiên Đà La.

Nay cớ sao ta chẳng được biết ảo thuật mà chẳng phải là ảo thuật?

Này trưởng giả, thiệt ra ta biết ảo thuật, biết người ảo thuật, biết quả báo ảo thuật, biết nghề ảo thuật. Ta biết sát nghiệp, biết người sát nghiệp, biết quả báo sát nghiệp, biết giải thoát sát nghiệp, nhẫn đến biết tà kiến, biết người tà kiến, biết quả báo tà kiến, biết giải thoát tà kiến.

Nếu trưởng giả nói người chẳng phải ảo thuật gọi là người ảo thuật, người chẳng phải tà kiến gọi là người tà kiến, thời mắc vô lượng tội.

Trưởng giả nói: Thưa Cù Đàm! Cứ như lời của Ngài nói thời tôi mắc tội rất lớn.

Nay tất cả của cải của tôi, tôi đem dâng cho Ngài tất cả. Mong Ngài chớ cho Vua Ba Tư Nặc biết việc của tôi.

Phật nói: Này trưởng giả! Tội của ông bất tất mất của. Ông sẽ do tội này mà phải bị đọa trong ba ác đạo.

Trưởng giả nghe nói đến ba ác đạo, kinh sợ bạch Phật rằng: Thưa Thánh Nhân! Nay tôi vì quên sót mà mắc lấy tội lớn. Thánh Nhân là bậc nhất thiết trí tất là biết rõ con đường giải thoát.

Nay tôi phải thế nào để thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh?

Lúc đó Đức Phật giảng giải về bốn lý Chân Đế.

Nghe xong trưởng giả chứng được quả Tu Đà Hoàn.

Trong lòng hổ thẹn hướng về Đức Phật mà sám hối: Tôi vốn ngu si, Đức Phật không phải người ảo mà nói là ảo. Ngày nay tôi xin quy y Tam Bảo.

Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Đây gọi là tùy tha ý mà nói.

Thế nào gọi là tùy tự tha ý mà nói?

Như ta từng nói: Trong tất cả thế gian, người trí nói có thời ta cũng nói có, người trí nói không thời ta cũng nói không.

Người trí trong đời nói sự vui ngũ dục có vô thường, khổ, vô ngã, đáng dứt diệt, thời ta cũng nói là có như vậy.

Người trí trong đời nói không bao giờ có vui ngũ dục, mà có thường, lạc, ngã, tịnh, thời ta cũng nói là không bao giờ có.

Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần