Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Ca Diếp Bồ Tát - Phần Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẨM HAI MƯƠI BỐN
PHẨM CA DIẾP BỒ TÁT
PHẦN SÁU
Này thiện nam tử! Như ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật Tánh một phần ít. Đây gọi là tùy tha ý mà nói.
Thế nào gọi là thấy phần ít?
Thập Trụ Bồ Tát được ba ngàn môn Thủ Lăng Nghiêm tam muội v.v…nên biết rõ mình sẽ được vô thượng bồ đề, mà chẳng thấy tất cả chúng sanh quyết định được vô thượng bồ đề, do đây nên ta nói bậc Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật Tánh phần ít.
Này thiện nam tử! Ta thường tuyên nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.
Tất cả chúng sanh chẳng đoạn chẳng diệt mãi đến chứng được vô thượng bồ đề. Đây gọi là tùy tự ý mà nói.
Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, vì phiền não che ngăn nên chẳng thể thấy được. Ta nói như vậy, ông cũng nói như vậy. Đây gọi là tùy tự tha ý mà nói.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai có lúc vì một pháp mà nói vô lượng pháp.
Như trong Khế Kinh nói: Tất cả phạm hạnh nhân nơi thiện tri thức. Tất cả phạm hạnh dầu có vô lượng nhân, nhưng nói thiện tri thức thời đã nhiếp hết cả.
Như ta từng nói: Tất cả ác hạnh nhân nơi tà kiến. Tất cả ác hạnh dầu có vô lượng nhân nhưng nói tà kiến thời đã nhiếp hết cả.
Hoặc như ta nói: Tín tâm là nhân của vô thượng bồ đề, dầu bồ đề có vô lượng nhân, nhưng nói tín tâm thời đã nhiếp hết cả.
Này thiện nam tử! Dầu Đức Như Lai nói vô lượng pháp là Phật Tánh, nhưng chẳng rời ấm, nhập, giới.
Này thiện nam tử! Vì chúng sanh nên Đức Như Lai thuyết pháp có bảy thứ từ ngữ: Một là từ ngữ về nhân, hai là từ ngữ về quả, ba là từ ngữ về nhân quả, bốn là từ ngữ về ví dụ, năm là từ ngữ bất ưng thuyết, sáu là từ ngữ về thế đế lưu bố, bảy là từ ngữ như ý.
Thế nào gọi là từ ngữ về Nhân?
Trng Nhân hiện tại nói quả báo vị lai.
Như ta từng bảo Tỳ Kheo: Ông xem chúng sanh ưa sát hại nhẫn đến ưa tà kiến, phải biết đó là người địa ngục vậy. Nếu có người chẳng ưa sát hại nhẫn đến chẳng ưa tà kiến, phải biết đó là người Cõi Trời.
Đây gọi là từ ngữ về nhân.
Thế nào là từ ngữ về quả?
Trong quả báo hiện tại nói nhân quá khứ.
Như trong Khế Kinh, ta bảo Tỳ Kheo: Như ông thấy mấy người nghèo khó, hình dung xấu xa, không được thong thả, phải biết rằng những người ấy quyết định đời trước có phá giới, tật đố, sân hận, không lòng hổ thẹn.
Nếu thấy người giàu có, lành mạnh, có thế lực, phải biết rằng người này đời trước quyết định có trì giới, bố thí, tinh tấn, hổ thẹn, không lòng tật đố, sân hận. Đây gọi là từ ngữ về quả.
Thế nào là từ ngữ về nhân quả?
Như trong Khế Kinh ta bảo các Tỳ Kheo chúng sanh hiện tại lục nhập, xúc làm nhân đây gọi là nghiệp quả quá khứ. Đức Như Lai cũng gọi đó là nghiệp, nghiệp này làm nhân duyên sẽ có quả vị lai. Đây gọi là từ ngữ về nhân quả.
Thế nào là từ ngữ về Ví Dụ?
Như nói rằng Sư Tử Vương dụ cho thân của Phật.
Cũng nói những ví dụ: Đại Tượng Vương, Đại Long Vương, cây Ba Lợi Chất Đa La, đấng Thất Bảo, Đại Hải, núi Tu Di, quả đất, mưa to, Thuyền Sư, Đạo Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Đại Lực Sĩ, Ngưu Vương, Bà La Môn, Sa Môn, Đại Thành, cây Đa La, đây gọi là từ ngữ về ví dụ.
Thế nào là từ ngữ Bất Ưng Thuyết?
Như trong Kinh ta từng nói: Trời Đất có thể hiệp, con sông chẳng chảy vào biển. Như ta nói với Vua Ba Tư Nặc bốn phía núi đồng đến. Như ta vì Lộc Mẫu Ưu Bà Di nói nếu cây Ta La có thể thọ giới Bát Quan Trai thời nó được hưởng thọ sự vui sướng Cõi Trời cõi người.
Thà nói Thập Trụ Bồ Tát có tâm thối chuyển chẳng nên nói Đức Như Lai nói hai lời. Thà nói bậc Tu Đà Hoàn đọa ba ác đạo chẳng nên nói Thập Trụ Bồ Tát có tâm thối chuyển. Đây gọi là từ ngữ Bất Ưng Thuyết.
Thế nào là từ ngữ Thế Đế Lưu Bố?
Như Phật nói: Nam, nữ, lớn, nhỏ, đến, đi, nằm, ngồi, xe cộ, nhà cửa, bình, áo, chúng sanh, thường, lạc, ngã, tịnh, quân, rừng, thành, ấp, tăng, phường, hiệp, tan. Đây gọi là từ ngữ về Thế Đế Lưu Bố.
Thế nào là từ ngữ Như Ý?
Như ta quở trách người hủy phạm cấm giới khiến họ tự trách hộ trì cấm giới. Như ta khen ngợi bậc Tu Đà Hoàn, khiến hàng phàm phu sanh tâm lành. Ngợi khen Bồ Tát làm cho chúng sanh phát tâm bồ đề, nói những sự khổ não của ba ác đạo khiến chúng sanh tu tập các pháp lành.
Chỉ vì tất cả pháp hữu vi mà nói tất cả đều đốt cháy, vô ngã cũng như vậy, nói tất cả chúng sanhđều có Phật Tánh khiến mọi người chẳng phóng dật. Đây gọi là từ ngữ Như Ý.
Này thiện nam tử! Đức Như Lai lại có từ ngữ tùy tự ý:
Như nói Phật Tánh của Như Lai có hai thứ: Một là có, hai là không.
Có, là Như Lai có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười trí lực, bốn vô sở úy, ba niệm xứ, đại từ, đại bi, Thủ Lăng Nghiêm v.v… vô lượng tam muội, Kim Cang v.v…vô lượng tam muội, phương tiện v.v… Vô lượng tam muội, năm trí ấn v.v… vô lượng tam muội.
Không, là Như Lai không có các điều thiện, bất thiện, vô ký, nghiệp nhân quả báo, phiền não, ngũ ấm, mười hai nhân duyên.
Này thiện nam tử! Như có và không, thiện, bất thiện, hữu lậu, vô lậu, thế gian, phi thế gian, thánh, phi thánh, hữu vi, vô vi, thật, bất thật, tịch tịnh, phi tịch tịnh, tránh, phi tránh, giới, phi giới, phiền não, phi phiền não, thủ, phi thủ, thọ ký, phi thọ ký, hưũ, phi hữu, tam thế, phi tam thế, thời, phi thời, thường, vô thường, ngã, vô ngã, lạc, vô lạc, tịnh, vô tịnh, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, phi sắc thọ tưởng hành thức, nội nhập, phi nội nhập, ngoại nhập, phi ngoại nhập, thập nhị nhân duyên, phi thập nhị nhân duyên.
Đây là Phật Tánh của Như Lai hai thứ có và không, nhẫn đến nhất xiển đề Phật Tánh hai thứ có và không cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Dầu ta nói rằng: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, nhưng chúng sanh chẳng hiểu những từ ngữ tùy tự ý của Phật như vậy. Những lời như vậy bậc tối hậu thân Bồ Tát còn chẳng hiểu được huống là những Bồ Tát khác và hàng Nhị Thừa.
Này thiện nam tử! Trước kia có một lúc tại núi Kỳ Xà Quật, ta cùng Di Lặc Bồ Tát luận về thế đế, mà Xá Lợi Phất v.v… năm trăm vị Thanh Văn đều chẳng hiểu biết những việc ấy, huống là việc xuất thế đệ nhất nghĩa đế.
Này thiện nam tử! Hoặc có Phật Tánh nhất xiển đề có mà người thiện căn thời không.
Hoặc có Phật Tánh người thiện căn thời có còn nhất xiển đề thời không.
Hoặc có Phật Tánh cả hai đều có, hoặc cả hai đều không.
Nếu hàng đệ tử của ta hiểu bốn nghĩa như vậy, chẳng nên gạn rằng: Nhất xiển đề quyết định có Phật Tánh hay quyết định không Phật Tánh.
Như nói chúng sanh đều có Phật Tánh, đây là từ ngữ tùy tự ý của Như Lai. Tù ngữ tùy tự ý của Như Lai như vậy, sao chúng sanh lại nhận hiểu quyết định một bề.
Này thiện nam tử! Như trong Sông Hằng có bảy hạng chúng sanh: Một là chìm luôn, hai là tạm nổi lên lại chìm, ba là nổi lên rồi thời dừng lại, bốn là nổi lên rồi xem khắp bốn phương, năm là xem khắp rồi thời đi, sáu là đi rồi lại đứng lại, bảy là dưới nước trên bờ đều đi.
Nói chìm luôn, là cá lớn mang nghiệp ác lớn thân nặng ở sâu nên chìm luôn.
Nói tạm thời nổi lên rồi lại chìm, là cá lớn vì nghiệp ác thân nặng ở chỗ cạn tạm thời thấy ánh sáng, do ánh sáng tạm thời nổi lên, rồi vì thân nặng mà lại chìm xuống.
Nói nổi lên rồi ở lại, là cá Kỳ Di ở chỗ nước cạn thích thấy ánh sáng nên nổi lên rồi ở lại.
Nói xem khắp bốn phương, là cá Tích vì kiếm ăn mà xem khắp bốn phương.
Xem khắp rồi đi, là nói cá Tích ấy thấy vật đằng xa cho là ăn được nên mau lội đến.
Đi rồi lại đứng lại, là cá này đi rồi đã đặng đồ ăn bèn dừng lại.
Nói dưới nước trên bờ đều đi tức là linh qui vậy.
Này thiện nam tử! Con sông Đại Niết Bàn vi diệu này, trong đó cũng có bảy hạng chúng sanh: Từ hạng ban đầu thường chìm, nhẫn đến hạng thứ bảy hoặc xuống nước hoặc lên bờ.
Nói thường chìm, là như có người nghe Kinh Đại Niết Bàn, nói rằng Đức Như Lai thường trụ không có biến đổi, là thường, lạc, ngã, tịnh, trọn chẳng nhập Niết Bàn, tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, đến hạng nhất xiển đề cũng ắt sẽ thành đạo Bồ Đề, Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật v.v... ắt sẽ được thành vô thượng bồ đề.
Người này nghe lời trên đây không tin mà nghĩ và nói rằng Kinh Điển Đại Niết Bàn này là sách ngoại đạo chẳng phải Kinh Phật.
Lúc bây giờ người này xa lìa bạn lành, chẳng nghe chánh pháp, dầu có lúc được nghe nhưng chẳng thể tư duy, dầu có tư duy nhưng chẳng tư duy pháp lành, vì chẳng tư duy pháp lành nên trụ nơi pháp ác.
Người trụ nơi pháp ác có sáu hạng: Một là ác, hai là vô thiện, ba là ô pháp, bốn là tăng hữu, năm là não nhiệt, sáu là thọ quả ác, do đây nên gọi là chìm.
Cớ sao gọi là chìm?
Vì không tâm lành mà thường làm việc ác, vì chẳng tu tập pháp đối trị nên gọi là chìm.
Nói rằng ác là vì Thánh Nhân quở trách, vì tâm sợ sệt, vì xa lìa người lành, vì không lợi ích chúng sanh, nên gọi là ác.
Nói rằng vô thiện là vì có thể sanh vô lượng quả báo ác, vì thường bị vô minh ràng buộc, vì thích cùng người ác làm bạn, vì không tu tập những phương tiện lành, vì tâm họ điên đảo luôn sai lầm.
Nói rằng ô pháp là vì thân khẩu thường nhiễm ô,vì nhiễm ô chúng sanh thanh tịnh, vì thêm lớn nghiệp chẳng lành, vì xa lìa pháp lành, đây gọi là ô pháp.
Nói tăng hữu là ba người như trên thật hành những pháp ác, có thể thêm địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chẳng thể tu tập pháp giải thoát, thân, khẩu, ý chẳng nhàm các cõi, đây gọi là tăng hữu.
Nói rằng não nhiệt là những người này, làm đủ bốn việc như trên có thể khiến thân tâm não nhiệt, xa lìa tịch tịnh thời gọi là nhiệt, bị quả báo địa ngục nên gọi là nhiệt, đốt cháy các chúng sanh nên gọi là nhiệt, đốt cháy các pháp lành nên gọi là nhiệt, người này chẳng có tín tâm mát mẻ nên gọi là nhiệt.
Nói rằng thọ lấy quả ác là người này làm đủ năm việc trên khi chết đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Có ba việc ác nên gọi là quả ác: Một là phiền não ác, hai là nghiệp ác, ba là báo ác, đây gọi là thọ lấy quả báo ác.
Người này có đủ sáu việc như trên thời có thể làm dứt mất căn lành tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn tội trọng, hủy báng Tam Bảo, dùng của vật của Chúng Tăng, có thể làm những việc phi pháp, do đây nên chìm đắm ở trong địa ngục A tỳ.
Thân hình rộng lớn tám muôn bốn ngàn do diên, vì người này nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý quá nặng nên không thể ra khỏi được, vì tâm họ chẳng thể sanh pháp lành, dầu có vô lượng Chư Phật ra đời cũng chẳng được nghe được thấy, đây gọi là thường chìm. Như cá lớn trong Sông Hằng.
Này thiện nam tử! Dầu ta nói nhất xiển đề gọi là thường chìm, nhưng lại có hạng thường chìm, mà chẳng phải nhất xiển đề: Như người vì cõi hữu lậu mà bố thí trì giới làm các việc lành, đây cũng gọi là thường chìm.
Này thiện nam tử! Có bốn việc lành mang lấy quả ác: Một là vì hơn người mà đọc tụng Kinh Điển, hai là vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, ba là vì hệ thuộc người khác mà làm việc bố thí, bốn là vì Cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng mà nhiếp niệm tư duy, đây là bốn điều lành được quả báo ác.
Nếu người thật hành bốn việc như vậy thời gọi là chìm rồi lại nổi lên, nổi lên rồi lại chìm xuống. Vì ưa thích ba cõi hữu lậu nên gọi là chìm.
Vì thấy ánh sáng tức là được nghe pháp trì giới, bố thí, thiền định, đây gọi là nổi lên. Thêm lớn tà kiến, sanh kiêu mạn nên gọi là lại chìm xuống.
Do đây nên trong Khế Kinh ta nói kệ rằng: Nếu có chúng sanh thích các cõi, vì các cõi mà tạo nghiệp ác, người này mê mất đạo Niết Bàn, đây là tạm nổi lại chìm xuống.
Đi nơi biển sanh tử tối tăm, dầu được giải thoát xem phiền não, người này lại thọ quả báo ác, đây là tạm ra lại chìm xuống.
Này thiện nam tử! Như cá lớn kia do thấy ánh sáng tạm thời nổi lên khỏi nước, vì thân nặng nên lại chìm xuống, hai hạng người trên đây cũng lại như vậy.
Này thiện nam tử! Hoặc có người tham đắm ba cõi hữu lậu đây gọi là chìm. Được nghe Kinh Đại Niết Bàn này mà sanh lòng tin, đây gọi là nổi lên.
Duyên cớ gì gọi đó là nổi lên?
Ví nghe Kinh này rồi xa lìa pháp ác tu tập pháp lành, nên gọi là nổi lên. Người này dầu tin nhưng cũng chẳng đầy đủ.
Duyên cớ gì tín tâm chẳng đầy đủ?
Người này dầu tin Đại Niết Bàn thường, lạc, ngã, tịnh, mà nói rằng thân Như Lai là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh.
Đức Như Lai có hai thứ Niết Bàn: Một là hữu vi, hai là vô vi. hữu vi Niết Bàn không có thường lạc ngã tịnh. Vô vi Niết Bàn có thường lạc ngã tịnh. Dầu tin Phật Tánh là chúng sanh có, nhưng bất tất là tất cả đều có. Do đây nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Này thiện nam tử! Tín tâm có hai thứ: Một là tin, hai là cầu. Người như trên đây dầu có tín tâm, nhưng chẳng thể suy cầu, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: Một là từ nghe pháp mà sanh lòng tin, hai là từ tư duy mà sanh lòng tin. Tín tâm của người này do nghe pháp mà sanh chẳng phải do tư duy, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: Một là tin có Thánh đạo, hai là tin người đắc đạo. Người này dầu tin có Thánh đạo, nhưng trọn chẳng tin có người đắc đạo, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Tín tâm lại có hai thứ: Một là tin chánh, hai là tin tà. Nói rằng có nhân quả, có Phật, Pháp, Tăng, đây gọi là tin chánh. Nói rằng không nhân quả, tánh Tam Bảo khác nhau, tin theo những lời tà của ngoại đạo, đây gọi là tin tà.
Người này dầu tin Phật Pháp Tăng Tam Bảo, nhưng chẳng tin Tam Bảo đồng một tánh tướng, dầu tin nhân quả nhưng chẳng tin người đắc quả, nên gọi là tín tâm chẳng đầy đủ.
Người này trọn nên tín tâm chẳng đầy đủ, thọ trì cấm giới cũng chẳng đầy đủ. Vì nhân chẳng đầy đủ nên chỗ được cấm giới cũng chẳng đầy đủ.
Lại giới có hai thứ: Một là oai nghi, hai là tùng giới. Người này dầu đầy đủ những giới về oai nghi nhưng chẳng đầy đủ những giới về tùng giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: Một là tác giới, hai là vô tác giới. Người này dầu có tác giới nhưng chẳng đủ vô tác giới, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: Một là từ thân khẩu mà được chánh mạng, hai là từ thân khẩu chẳng được chánh mạng. Người này dầu từ thân khẩu nhưng chẳng được chánh mạng, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: Một là cầu giới, hai là xả giới. Người này dầu đủ giới do cầu mà có nhưng chẳng được giới do xả mà có, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: Một là tùy hữu, hai là tùy đạo. Người này dầu đủ giới tùy hữu nhưng chẳng đủ giới tùy đạo, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Giới lại có hai thứ: Một là thiện giới, hai là ác giới. Thân khẩu ý lành gọi là thiện giới. Ngưu giới, cẩu giới v.v… gọi là ác giới. Người này rất tin cả hai thứ giới đây đều có quả lành, nên gọi là giới chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đầy đủ hai điều: Tín tâm và giới, nên chỗ tu tập đa văn cũng chẳng đầy đủ.
Thế nào gọi là đa văn chẳng đầy đủ?
Mười hai Bộ Kinh của Đức Như Lai nói ra người này chỉ tin sáu bộ, mà chẳng tin sáu bộ, nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Người này dầu thọ trì sáu Bộ Kinh đây nhưng không thể đọc tụng cùng giảng giải cho người, không chỗ lợi ích, nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Hoặc người này thọ trì sáu Bộ Kinh đây rồi mà vì luận nghị, vì hơn người, vì lợi dưỡng, vì các cõi hữu lậu mà đọc tụng giảng thuyết nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Này thiện nam tử! Ở trong Khế Kinh ta từng nói đa văn đầy đủ.
Thế nào là đầy đủ?
Nếu có Tỳ Kheo thân khẩu ý đều lành, trước có thể cúng dường Hòa Thượng, chư Sư, những người có đức. Chư Sư này đối với người ấy sanh lòng thương mến, nên đem Kinh Pháp truyền dạy cho. Người này chí tâm thọ trì tụng tập, được trí huệ.
Được trí huệ rồi có thể khéo tư duy thật hành đúng như pháp. Khéo tư duy rồi thời được chánh nghĩa. Được chánh nghĩa rồi thân tâm tịch tịnh. Thân tâm đã tịch tịnh thời sanh hỷ tâm.
Do hỷ tâm mà được định. Do được định nên được chánh tri kiến. Được chánh tri kiến rồi sanh lòng ăn năn nhàm chán các cõi hữu lậu. Vì nhàm chán các cõi nên được giải thoát.
Người trên đây không có những việc như vậy nên gọi là đa văn chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đầy đủ ba việc như vậy nên bố thí cũng chẳng đầy đủ.
Bố thí có hai thứ: Một là tài thí, hai là pháp thí, người này dầu thật hành về tài thí nhưng vì cầu cõi hữu lậu, dầu thật hành pháp thí nhưng cũng chẳng đầy đủ, vì bí lẫn chẳng nói hết sợ người hơn mình, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Hai thứ tài thí, pháp thí đều riêng có hai: Một là Thánh, hai là chẳng phải Thánh.
Thánh Nhân bố thí rồi chẳng cầu quả báo. Người chẳng phải Thánh bố thí rồi cầu quả báo.
Thánh Nhân bố thí pháp để làm cho pháp được tăng trưởng. Người chẳng phải thánh bố thí pháp để tăng trưởng các cõi hữu lậu.
Người này vì tăng trưởng của cải mà thật hành tài thí, vì tăng trưởng cõi hữu lậu mà thật hành pháp thí, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Lại người này lãnh thọ sáu Bộ Kinh, thấy người thọ pháp thời cung cấp cho, gặp người chẳng thọ pháp thời chẳng cung cấp, nên gọi là bố thí chẳng đầy đủ.
Người này chẳng đủ bốn điều như trên nên chỗ tu trí huệ cũng chẳng đầy đủ. Tánh của trí huệ là hay phân biệt. Người này chẳng thể phân biệt Như Lai là thường hay vô thường.
Trong Kinh Đại Niết Bàn này Đức Phật nói Như Lai chính là giải thoát, giải thoát chính là Như Lai. Như Lai là Niết Bàn, Niết Bàn là giải thoát. Trong những nghĩa đây người này chẳng thể phân biệt được.
Đức Phật lại nói phạm hạnh là Như Lai, Như Lai là từ, bi, hỷ, xả. Từ, bi, hỷ, xả là giải thoát, giải thoát là Niết Bàn, Niết Bàn là từ, bi, hỷ, xả. Trong những nghĩa đây, người này không phân biệt được nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người này lại chẳng phân biệt được Phật Tánh, Phật Tánh là Như Lai, Như Lai là tất cả pháp bất cộng, pháp bất cộng là giải thoát, giải thoát là Niết Bàn, Niết Bàn là pháp bất cộng.
Người này lại chẳng phân biệt được bốn đế lý khổ tập diệt đạo, vì không phân biệt được bốn đế lý nên chẳng biết thánh hạnh, vì chẳng biết thánh hạnh nên chẳng biết Như Lai, vì chẳng biết Như Lai nên chẳng biết giải thoát, vì chẳng biết giải thoát nên chẳng biết Niết Bàn, do đây nên gọi là trí chẳng đầy đủ.
Người này chẳng có đủ năm điều như vậy, thời thêm lớn hai pháp: Một là thêm pháp lành, hai là thêm pháp ác.
Thế nào gọi là thêm lớn pháp ác?
Người này chẳng biết rằng mình không đầy đủ, tự cho rằng đầy đu ûmà sanh tâm tham trước, đối với người đồng hàng cho mình là hơn, do đây bèn gần gũi những bạn ác đồng với mình đã gần gũi bạn ác rồi lại được nghe những pháp chẳng đầy đủ, sanh tâm vui mừng nhiễm trước, kiêu mạn phóng dật.
Do phóng dật mà gần gũi người tại gia, thích nghe nói những việc tại gia, xa lìa pháp xuất gia thanh tịnh, do đây nên thêm lớn pháp ác, vì đã thêm pháp ác nên thân khẩu ý gây nghiệp chẳng thanh tịnh, vì ba nghiệp chẳng thanh tịnh nên thêm lớn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Đây gọi là tạm nổi lên lại chìm xuống.
Trong Phật Pháp của ta ai là kẻ tạm nổi lên lại chìm xuống?
Chính là Đề Bà Đạt Đa, Cù Hoà Ly Tỳ Kheo, Uyển Thủ Tỳ Kheo, Thiện Tinh Tỳ Kheo, Tỳ Xá Tỳ Kheo, Mãn Tú Tỳ Kheo, Từ Địa Tỳ Kheo Ni, Khoáng Dã Tỳ Kheo Ni, Phương Tỳ Kheo Ni, Mạn Tỳ Kheo Ni, Tịnh Khiết Trưởng Giả, Câu Hữu Ưu Bà Tắc, Kim Lặc Thích Chủng, Tượng Trưởng Giả, Danh Xưng Ưu Bà Di, Quang Minh Ưu Bà Di, Nan Đà Ưu Bà Di, Quân Ưu Bà Di, Linh Ưu Bà Di.
Như cá lớn thấy ánh sáng nên nổi lên, vì thân nặng lại chìm xuống.
Thế nào gọi là thân lớn pháp lành?
Người này biết rõ mình công hạnh chẳng đầy đủ, vì tự biết chẳng đầy đủ nên cầu gần bạn lành, vì gần bạn lành nên thích nghe hỏi chỗ chưa được nghe, nghe rồi thích thọ trì, thọ rồi thích tư duy, khéo tư duy rồi có thể ở đúng như pháp, vì ở đúng như pháp nên thêm lớn pháp lành, vì thêm lớn pháp lành nên trọn chẳng còn chìm, đây gọi là nổi lên rồi ở lại.
Trong Phật Pháp của ta ai là người nổi lên rồi ở lại?
Chính là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nhã Kiều Trần Như v.v… năm vị Tỳ Kheo Da Xá v.v… năm mươi vị Tỳ Kheo, A Nâu Lâu Đà, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp v.v… ba vị Tỳ Kheo Thập Lực Ca Diếp, Sấu Cù Đàm Di Tỳ Kheo Ni, Ba Tra La Hoa Tỳ Kheo Ni, Thắng Tỳ Kheo Ni, Thiệt Nghĩa Tỳ Kheo Ni, Hải Ý Tỳ Kheo Ni.
Bạt Đà Tỳ Kheo Ni, Tịnh Tỳ Kheo Ni, Bất Thối Chuyển Tỳ Kheo Ni, Tần Bà Ta La Vương, Úc Dà Trưởng Giả, Tu Đạt Đa Trưởng Giả, Thích Ma Ha Nam Trưởng Giả, Bần Tu Đạt ĐaThử Lang Trưởng Giả, Danh Xưng Trưởng Giả.
Cụ Túc Trưởng Giả, Sư Tử Tướng Quân, Ưu Bà Ly Trưởng Giả, Đao Trưởng Giả, Vô Úy Ưu Bà Di, Thiện Trụ Ưu Bà Di, Ái pháp Ưu Bà Di, Dũng Kiện Ưu Bà Di, Thiên Đắc Ưu Bà Di, Thiện Sanh Ưu Bà Di, Cụ Thân Ưu Bà Di, Ngưu Đắc Ưu Bà Di, Khoáng Dã Ưu Bà Di, Ma Ha Tư Na Ưu Bà Di v.v…
Thế nào gọi là ở lại?
Vì thường thích xem thấy ánh sáng pháp lành. Do nhân duyên này, hoặc Phật xuất thế, hoặc chẳng xuất thế, những người trên đây trọn chẳng tạo nghiệp ác nên gọi là ở lại. Như cá Kỳ Di thích thấy ánh sáng nên chẳng lặn chẳng chìm. Hạng tứ chúng trên đây cũng như vậy.
Trong Kinh ta từng nói kệ rằng:
Nếu người khéo phân biệt pháp nghĩa,
Chí tâm cầu được quả Sa Môn,
Quở trách tất cả Cõi hữu lậu,
Người này gọi là ở đúng pháp.
Nếu hay cúng dường vô lượng Phật,
Trong vô lượng đời tu Thánh đạo,
Hưởng thọ vui sướng chẳng phóng dật,
Người này gọi là ở đúng pháp.
Gần gũi bạn lành nghe chánh pháp,
Tâm khéo tư duy ở đúng pháp,
Thích thấy ánh sáng tu Thánh đạo,
Chứng được giải thoát thường an ổn.
Này thiện nam tử! Trí chẳng đầy đủ phàm có năm điều, người này biết rồi cầu gần bạn lành.
Bạn lành này nên xem xét người trên đây nhiều tham dục hay nhiều sân khuể, ngu si, tư giác, chấp ngã?
Nếu biết là nhiều tham dục thời nên dạy cho pháp quán bất tịnh: Nhiều sân khuể dạy pháp quán từ bi. Nhiều ngu si dạy pháp quán nhân duyên. Nhiều tư giác dạy pháp quán sổ tức. Nhiều chấp ngã nên dạy phân tích thập bát giới v.v…
Người này nghe rồi chí tâm thọ trì, thọ trì rồi tu hành đúng như pháp, thật hành đúng như pháp rồi lần lượt chứng được tứ niệm xứ quán thân thọ tâm pháp, đặng pháp quán này rồi lại quán mười hai nhân duyên, quán rồi chứng được noãn pháp.
Ca Diếp Bồ Tát bạch rằng: Thế Tôn! Tất cả chúng sanh đều có noãn pháp.
Vì Đức Phật nói ba pháp hòa hiệp gọi là chúng sanh: Một là thọ, hai là noãn, ba là thức. Nếu theo nghĩa này thời tất cả chúng sanh lẽ ra trước đã có noãn.
Tại sao Đức Như Lai nói rằng noãn pháp do bạn lành mà có?
Phật nói: Này thiện nam tử! Như noãn pháp của ông hỏi thời tất cả chúng sanh đến nhất xiển đề đều có. Noãn pháp của ta nói hôm nay phải do phương tiện rồi sau mới được, chẳng phải tất cả chúng sanh đều có trước.
Nay ông chẳng nên gạn rằng tất cả chúng sanh đều có noãn pháp.
Này thiện nam tử! Noãn pháp này thuộc về Cõi sắc, chẳng phải Cõi Dục có được. Vì Cõi Dục không có, nên biết rằng tất cả chúng sanh bất tất đều có.
Này thiện nam tử! Cõi sắc dầu có noãn pháp nhưng chẳng phải tất cả đều có, vì đệ tử của ta thời có, còn ngoại đạo thời không.
Này thiện nam tử! Tất cả ngoại đạo chỉ quán được sáu hạnh. Đệ tử của ta thời quán đủ cả mười sáu hạnh. Mười sáu hạnh này tất cả chúng sanh bất tất đều có.
Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là noãn?
Là tánh nó tự noãn hay vì pháp khác mà noãn?
Này thiện nam tử! Noãn pháp này tánh nó là noãn chẳng phải do pháp khác mà noãn.
Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai trước kia nói rằng Mã Sư và Mãn Tú không có noãn pháp, vì hai người này không có tín tâm đối với Tam Bảo. Do đây nên biết rằng tín tâm chính là noãn pháp.
Này thiện nam tử! Tín tâm chẳng phải là noãn pháp, vì do tín tâm mà chứng noãn pháp.
Này thiện nam tử! Luận về noãn pháp chính là trí huệ, vì quán Tứ Đế nên gọi là mười sáu hạnh. Hạnh đây chính là trí.
Này thiện nam tử! Như lời ông hỏi duyên cớ gì mà gọi là noãn?
Này thiện nam tử! Luận về noãn pháp chính là tướng lửa của tám Thánh đạo.
Như cọ lửa: Trước có hơi nóng, kế có lửa, rồi sau có khói, đạo vô lậu này cũng như vậy: Hơi nóng là mười sáu hạnh, lửa là quả Tu Đà Hoàn, khói là trong vị tu đạo dứt kiết sử.
Bạch Thế Tôn! Noãn pháp này cũng là pháp có, cũng là hữu vi. Noãn pháp này được qủa báo thân ngũ ấm Cõi Sắc nên gọi là có. Vì là nhân duyên nên lại gọi là hữu vi.
Nếu là hữu vi tại sao có thể làm tướng đạo vô lậu?
Này thiện nam tử! Đúng như vậy! Noãn pháp này dầu là pháp hữu vi hữu lậu, nhưng trở lại có thể phá hoại pháp hữu vi hữu lậu, nên có thể làm tướng đạo vô lậu. Như người cỡi ngựa cũng thương ngựa nhưng cũng đánh ngựa. Noãn pháp cũng vậy: Vì ái mà thọ sanh, vì nhàm mà tu quán hạnh, do đây nên dầu là hữu lậu hữu vi mà có thể làm tướng cho chánh đạo kia.
Có bảy mươi ba hạng người được noãn pháp: Cõi Dục mười hạng người.
Mười hạng người này đầy đủ tất cả phiền não: Từ dứt một phần đến chín phần. Như Cõi Dục, Sơ Thiền nhẫn đến vô sở hữu xứ cũng như vậy. Đây gọi là bảy mươi ba. Những người này được noãn pháp rồi thời chẳng còn lại có thể dứt căn lành tạo tội ngũ nghịch phạm bốn tội trọng.
Những người này có hai hạng: Một là gặp bạn lành, hai là gặp bạn ác.
Người gặp bạn ác tạm thời nổi lên rồi chìm trở lại.
Người gặp bạn lành thời quan sát khắp bốn phương. Quan sát bốn phương chính là đảnh pháp, đảnh pháp này dầu cũng là tánh ngũ ấm, nhưng vẫn duyên nơi bốn đế lý, nên được gọi là quan sát khắp bốn phương. Được đảnh pháp rồi kế được nhẫn pháp.
Nhẫn pháp này tánh nó cũng là ngũ ấm, cũng duyên bốn đế lý.
Người này kế được thế đệ nhất pháp, pháp này dầu tánh là ngũ ấm nhưng cũng duyên bốn đế lý.
Người này kế được khổ pháp nhẫn, tánh của nhẫn là huệ duyên nơi một đế lý.
Pháp nhẫn này duyên một đế lý rồi nhẫn đến kiến đạo dứt phiền não đặng quả Tu Đà Hoàn. Đây gọi là quan sát khắp bốn phương, bốn phương chính là bốn đế lý.
Bạch Thế Tôn! Trước kia Đức Phật nói rằng những phiền não của bậc Tu Đà Hoàn dứt, dường như dòng nước rộng bốn mươi dặm, những phiền não còn lại như giọt nước đầu sợi lông.
Nơi đây sao lại nói dứt ba món kiết sử gọi là bậc Tu Đà Hoàn: Một là ngã kiến, hai là chẳng phải nhân thấy là nhân, ba là lưới nghi.
Bạch Thế Tôn! Nhân duyên gì gọi là Tu Đà Hoàn xem khắp bốn phương?
Lại do duyên gì mà gọi là Tu Đà Hoàn?
Duyên cớ gì đem cá Tích để dụ bậc Tu Đà Hoàn?
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn dầu có thể dứt vô lượng phiền não, nhưng ba món kiết này nặng nhất và cũng nhiếp tất cả những kiết sử của bậc Tu Đà Hoàn dứt, nên nói là dứt ba món kiết sử.
Như Quốc Vương lúc đi tuần du, dầu có các quan và bốn đạo binh, nhưng người đời chỉ nói rằng nhà Vua đến, nhà Vua đi. Trong đây nói dứt ba món phiền não này cũng như vậy.
Duyên cớ gì ba món kiết này là nặng?
Vì tất cả chúng sanh thường khởi phiền não này và vì vi tế khó biết, nên gọi là nặng. Vì ba món kiết này khó dứt được, vì nó có thể làm nhân cho tất cả phiền não, là oán địch bị đối trị của giới, định và huệ.
Này thiện nam tử! Có những chúng sanh nghe bậc Tu Đà Hoàn có thể dứt vô lượng phiền não như vậy, thời chúng nó sanh lòng thối chuyển mà nói rằng: Chúng ta thế nào có thể dứt vô lượng phiền não như vậy. Do đây nên Đức Như Lai phương tiện nói dứt ba kiết sử.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hòan quán Tứ đế được bốn điều: Một là kiên cố trụ chánh đạo, hai là có thể khắp quan sát, ba là có thể thấy đúng như thật, bốn là có thể phá hoại oán địch lớn. Bậc Tu Đà Hoàn, thành tựu tín v.v… ngũ căn không ai có thể lay động, nên gọi là kiên cố trụ nơi chánh đạo.
Bậc này đều có thể quở trách những phiền não trong và ngoài, nên gọi là khắp quan sát. Thấy đúng như thậtchính là nhẫn trí. Oán địch lớn là nói bốn thứ điên đảo.
Này thiện nam tử! Chữ Tu là vô lậu, chữ Đà Hoàn là tu tập, vì tu tập vô lậu nên gọi là Tu Đà Hoàn. Lại có nghĩa chữ Tu là dòng, vì ngược dòng nên gọi là Tu Đà Hoàn.
Bạch Thế Tôn! Nếu theo nghĩa này, duyên cớ gì những bậc Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán chẳng được gọi là Tu Đà Hoàn?
Này thiện nam tử! Từ bậc Tu Đà Hoàn nhẫn đến Chư Phật cũng đều được gọi là Tu Đà Hoàn cả. Nếu bậc Tư Đà Hàm đến Chư Phật mà không có danh nghĩa Tu Đà Hoàn, thời đâu được gọi là Tư Đà Hàm nhẫn đến Phật.
Tất cả chúng sanh về danh tự có hai thứ: Một là tên cũ, hai là tên mới. Lúc còn phàm phu có danh tự thế tục, lúc đã đắc đạo lại đặt tên gọi là Tu Đà Hoàn. Trước gọi là Tu Đà Hoàn, vì lúc sau đắc quả nên gọi là Tư Đà Hàm. Người này cũng gọi là Tu Đà Hoàn, cũng gọi là Tư Đà Hàm, nhẫn đến Chư Phật cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Có hai thứ dòng: Một là giải thoát, hai là Niết Bàn. Tất cả Thánh Nhân đều có hai dòng này, nên cũng được gọi là Tu Đà Hoàn cũng gọi là Tư Đà Hàm, nhẫn đến Phật cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Bậc Tu Đà Hoàn cũng gọi là Bồ Tát. Vì Bồ Tát chính là tận trí và vô sanh trí. Bậc Tu Đà Hoàn cũng mong cầu hai trí này, nên được gọi là Bồ Tát.
Bậc Tu Đà Hoàn cũng được gọi là giác. Vì Chánh Giác kiến đạo dứt phiền não, vì Chánh Giác nhân quả, vì Chánh Giác cộng đạo và bất cộng đạo. Bậc Tư Đà Hàm nhẫn đến bậc A La Hán cũng như vậy.
Này thiện nam tử! Có hai hạng Tu Đà Hoàn: Lợi căn và độn căn. Bậc độn căn bảy lần sanh cõi người Cõi Trời, hoặc sáu lần, năm lần, bốn lần, ba lần, hai lần sanh cõi người Trời mới chứng quả A La Hán. Bậc lợi căn hiện đời chứng quả Tu Đà Hoàn đến quả A La Hán.
Này thiện nam tử! Cá Tích có bốn điều: Một là xương nhỏ nên nhẹ, hai là có cánh nên nhẹ, ba là thích thấy ánh sáng, bốn là ngậm được vật thời giữ chặt.
Bậc Tu Đà Hoàn cũng có bốn điều: Một là phiền não nhỏ nhẹ như cá Tích nhỏ xương, hai là có chỉ có quán như cá Tích có cánh, ba là kiến đạo, như cá Tích thích thấy ánh sáng, bốn là nghe thấy Đức Phật nói nghĩa vô thường khổ vô ngã bất tịnh thời kiên trì chẳng bỏ như cá Tích ngậm được vật thời giữ chặt.
Như trước kia Ma Vương hóa làm thân Phật.
Thủ La trưởng giả xem thấy trong lòng kinh sợ, Ma thấy tâm trưởng giả động bèn bảo trưởng giả rằng: Trước kia ta nói bốn chân đế, thuyết đó không chân thật. Nay ta vì ông mà nói năm đế, sáu ấm, mười ba nhập, mười chín giới. Thủ La trưởng giả nghe lời này liền quan sát pháp tướng đều không có lý do, nên kiên trì nghĩa cũ, tâm ông chẳng lay động.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Hai Mươi Bốn - Phẩm Trừ Bệnh
Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Hai Mươi Bảy
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Lục Nội Xứ
Phật Thuyết Kinh Giảo Lượng Thọ Mạng - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Tránh
Phật Thuyết Kinh đồng Tử Kim Quang Vương
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Phi Ngã - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Thừa đại Bi Phân đà Lợi - Phẩm Hai Mươi Tám - Phẩm Bồ Tát Vân Tập
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bốn Mươi Tám - Pháp Hội Thắng Man Phu Nhân - Phần Một