Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng Vô Tưởng - Chương Ba Mươi Sáu - Như Lai Niết Bàn - Tập Ba
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG VÔ TƯỞNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng
Pháp Sư Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
CHƯƠNG BA MƯƠI SÁU
NHƯ LAI NIẾT BÀN
TẬP BA
Lúc đó, trong đại chúng có Thiên Nữ tên Tịnh Quang đem hương, hoa, phướn, lọng, kỹ nhạc cúng dường Phật, rồi cung kính chấp tay bạch: Bạch Thế Tôn! Hai vị Hiền Giả thành tựu trí tuệ vi diệu sâu xa, có khả năng khai tạng bí mật của Như Lai, từ đâu tới vậy?
Cúi xin Thế Tôn hãy giảng nói.
Phật dạy: Lành thay! Này Thiên Nữ! Nàng đã vì chúng sinh mà thưa hỏi nghĩa này. Vậy thì hãy lắng nghe, Ta sẽ giảng nói. Hai người này chính là hai người con chân chánh của Phật, như Hương tượng vương, là bậc đại trượng phu, vì chúng sinh nên vui ở nơi sinh tử, tri ân báo ân về sự hộ niệm của ta, khéo có thể hộ trì chủng tánh của Chư Phật, vì Chư Phật mà chịu trọng trách đốt lên ngọn đèn pháp.
Thiên Nữ! Vào thời quá khứ xa xưa vô lượng ức na do tha A tăng kỳ kiếp về trước, lúc đó có Phật ra đời hiệu là Đồng Tánh Đăng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Cõi Diêm Phù Đề lúc ấy có vô lượng vô biên chúng sinh không thể tính đếm, những chúng sinh này đều thành tựu sự an ổn vui vẻ, không còn những bận tâm về đói khát, khổ não. Đất đai nơi ấy rộng rãi, thanh tịnh, ngang dọc sáu vạn tám ngàn do tuần.
Thành quách có nhiều đến bảy vạn tám ngàn tòa, mỗi một đại thành đều được hình thành từ bảy báu. Bốn phía vách thành có chín vạn lần đẩy lùi quân địch. Đại thành lúc đó tên là Bảo tụ, tức nay là thành Vương Xá. Trong thành Bảo tụ có tám vạn ngàn ức người.
Đức Phật Đồng Tánh Đăng sinh ra tại thành này. Tất cả vô lượng chúng sinh trong thành ấy đều phát tâm cầu đạt đạo quả bồ đề vô thượng thành tựu được thần thông, là tượng vương trong loài người.
Thiên Nữ! Bấy giờ ở giữa đại chúng, Đức Như Lai cất lên tiếng Sư Tử gầm, rồi tuyên nói Kinh Điển Đại Vân này. Thời ấy, trong thành có vị Vua tên Đại Tinh Tấn Long Vương, Vua có phu nhân tên Hộ Pháp, có một đại thần tên Pháp Lâm Tụ.
Lúc này, Vua cùng phu nhân với vị đại thần kia đi đến chỗ Phật, cung kính cúng dường, chấp tay lễ bái, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ra ngồi một bên. Khi đó, Đức Phật Đồng Tánh Đăng biết được những suy nghĩ nơi tâm của Đại Tinh Tấn Long Vương, bèn phóng ra luồng ánh sáng lớn có tên Vô Sở Úy, khi gặp luồng ánh sáng này, lòng Vua đạt được pháp hỷ.
Lúc ấy, nương thần lực của Phật, vị đại thần của Vua, bạch: Bạch Thế Tôn! Xá lợi của Như Lai có thể đạt được chăng?
Đức Thế Tôn im lặng không trả lời.
Thiên Nữ! Vị Đại Vương ấy vì chánh pháp nên đã cùng vị đại thần thay phiên nhau luận giảng về xá lợi.
Nghe thế, Phật khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Trong chúng của vị Phật ấy có một vị đại đệ tử tên Ma Ha Nam, tâm sinh thiện dục, thầm nghĩ: Thật tốt thay, vị Đại Vương này đã khéo giải pháp giới hết sức thâm diệu của Như Lai. Thế rồi Đức Phật liền giảng nói về những diệu nghĩa của giáo pháp sâu xa mà Vua đã giải thích cho chúng hội nghe. Đại chúng nghe rồi đều sinh lòng kinh sợ, nghi ngờ.
Phật liền bảo đại chúng: Công đức của vị Vua này là không thể nghĩ bàn, sâu xa không thể lường xét. Đây chẳng phải là những điều mà các ông có thể lãnh hội được.
Nghe Phật khen ngợi công đức của mình như thế, vị Đại Vương hết sức vui mừng, liền đứng dậy nhiễu quanh theo phía bên phải ngàn vòng, đem hoa báu cúng dường, tung rải lên trên Phật, rồi ca ngợi, phát nguyện: Vào đời vị lai, khi Đức Như Lai Thích Ca xuất hiện ở đời, lúc dùng đại phương tiện chỉ bày sự diệt vong của giáo pháp, lúc đó, con sẽ xuất gia tu đạo, thọ trì tịnh giới đủ đại uy lực.
Hễ thấy có Tỳ Kheo hành ác phá giới nào, con sẽ xua đuổi họ đến những nơi biên địa, nơi không có pháp Phật, và vì chánh pháp, con sẵn sàng không tiếc thân mạng mình.
Vị đại thần kia cũng lại phát nguyện: Khi Đức Như Lai Thích Ca dùng đại phương tiện thị hiện Niết Bàn, vào lúc ấy con sẽ làm một vị đại Quốc Vương hộ trì chánh pháp vô thượng của Như Lai. Hễ thấy Tỳ Kheo ác nào, con sẽ ra lệnh đuổi đi. Còn đối với những vị trì pháp, con sẽ hết lòng cung kính cúng dường.
Vị phu nhân kia cũng lại phát nguyện: Khi Đức Như Lai Thích Ca xuất hiện, khiến cho uy lực của con có khả năng hàng phục tà kiến.
Vị đệ tử Ma ha nam cũng phát nguyện: Con xin nguyện vào lúc ấy được làm vị đại đệ tử của Đức Như Lai, đạt được thần thông lớn, đối với công đức của Phật, con có khả năng cất lên tiếng Sư Tử gầm.
Thiên Nữ! Ngày hôm nay, bốn vị này đã nhận trọng trách gánh vác giáo pháp của ta. Không chỉ hôm nay mà mãi đến về sau, bốn người đó cũng sẽ hộ trì chánh pháp của ta.
Lúc ấy, Thiên Nữ liền bạch: Nay con chưa biết bốn vị ấy là ai. Cúi mong Như Lai hãy nói tên những vị ấy.
Phật đáp: Lành thay! Này Thiên Nữ! Cô hãy chí tâm lắng nghe, ta sẽ phân biệt giảng nói cho cô rõ. Vị đại thần thuở đó, nay chính là Bà La Môn Thiện Đức đây. Một trăm hai mươi năm, sau khi ta diệt độ, ông ấy sẽ làm Vua ở Cõi Diêm Phù Đề, trụ trong thành Ba Lê Phất La, tên là A Thúc Ca, họ Vô Tà, là bậc Chuyển Luân Vương.
Ông đã đạt được một trong hai phần phước đức, được đại tự tại trong Cõi Diêm Phù Đề, hộ trì chánh pháp gầm lên tiếng sư tử, truyền bá giáo pháp khắp chốn được nhiều xá lợi, cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán. Gặp Tỳ Kheo xấu ác thì sửa trị, khiến tu thiện.
Thiên Nữ lại nói: Xin Như Lai hãy giảng nói thêm.
Phật bảo Thiên Nữ: Hãy chờ một chút, ta sẽ nói về nhân duyên của cô trước.
Nghe Phật nói thế, Thiên Nữ cảm thấy xấu hổ, cúi mặt xuống đất.
Phật bèn khen: Lành thay! Xấu hổ tức là y phục pháp thiện của chúng sinh.
Thiên Nữ! Vị phu nhân của Vua thời ấy chính là nàng đấy. Vào thời vị Phật ấy, do vì được nghe một lần về bản Kinh Đại Niết Bàn mà nay nàng đạt được thân của Cõi Trời, gặp lúc ta xuất hiện ở đời.
Lại được nghe giáo nghĩa sâu xa xả bỏ hình hài Cõi Trời này, liền dùng thân nữ làm Vua một nước, được làm Chuyển Luân Vương, thống lãnh một trong bốn cõi, được đại tự tại, thọ trì năm giới.
Làm một Ưu Bà Di giáo hóa cho những nam nữ lớn nhỏ nơi các xóm làng, thành ấp của mình, khiến họ thọ trì năm giới, giữ gìn chánh pháp, hàng phục những ngoại đạo, các tà thuyết dị kiến. Lúc ấy, nàng đích thực là một Bồ Tát, nhưng do vì để giáo hóa chúng sinh nên đã thị hiện thọ thân nữ.
Còn vị Vua thuở đó nay là vị Đồng Tử Lê Xa Nhất Thiết Chúng Sinh Lạc Kiến. Do đã thông đạt giáo nghĩa thâm diệu của chánh pháp nên vị này có khả năng mở tạng pháp bí mật của Như Lai, hộ trì Phật Pháp không cho thiếu mất.
Còn vị Ma Ha Nam ấy, nay là Bồ Tát Đại Vân Mật Tạng. Vị Bồ Tát này đã đạt được một trong hai phần chân thật của ta, đã tri ân báo ân, hộ trì chánh pháp, có khả năng giải đáp nghĩa lý sâu xa không hề vướng mắc.
Thiên Nữ! Ngay cả những vị thượng trí như Tôn Giả Đại Ca Diếp trong chúng của ta cũng không thể nào biện nói được nghĩa lý sâu xa này như Đại Bồ Tát Đại Vân Mật Tạng.
Bấy giờ, trong đại chúng có một Thiên Tử tên Kỳ Tài cùng với một ngàn Thiên Tử liền đứng dậy, hướng về Phật, đem các loại hoa, hương, phướn, lọng, kỹ nhạc cúng dường rồi cung kính chấp tay nói kệ tán thán:
Biển cả có thể lường
Tu Di có thể biết
Cảnh giới pháp Như Lai
Thật khó thể nghĩ bàn.
Lúc Đức Phật giảng nói pháp này, có vô số ngàn người phát tâm cầu đạt đạo quả bồ đề vô thượng.
Lúc ấy, Đức Như Lai bảo Bà La Môn Thiện Đức: Lành thay! Lành thay! Này Đại Bà La Môn! Nay ông khéo phát tâm hoan hỷ nên được quả báo vô thượng.
Này Đại Bà La Môn! Cách đây về hướng Nam, khoảng ba mươi vạn hằng hà sa Thế Giới, có một Thế Giới Tu Man Na, nơi ấy có vị Phật hiệu Tịnh Quang Bí Mật gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Từ nơi đây về hướng Nam, cách khoảng năm mươi vạn hằng hà sa Thế Giới, có một Thế Giới tên Pháp Hỷ Bảo, vị Phật ở cõi đó hiệu là Pháp Tạng gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Từ đây về hướng Nam, lại cách khoảng sáu mươi vạn hằng hà sa Thế Giới, có Thế Giới tên Nhất Thiết Trì, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Sư Tử Hống Thần Túc Vương gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, vì nhằm hóa độ chúng sinh nên thường trụ ở đời, chuyển bánh xe chánh pháp.
Lại từ đây hướng về phía Nam, cách hơn ba mươi sáu vạn hằng hà sa Thế Giới, có Thế Giới tên Hoa Phan, Đức Phật nơi cõi ấy hiệu Cao Tu Di, mười tôn hiệu gồm đủ cho đến chuyển bánh xe chánh pháp.
Lại từ đây hướng về phía Nam, cách hơn tám mươi vạn hằng hà sa Thế Giới, có Thế Giới tên Bảo Thủ, Phật hiệu là Pháp Hộ, mười tôn hiệu gồm đủ cho đến chuyển bánh xe chánh pháp.
Này Đại Bà La Môn! Thế Giới của Chư Phật như thế được trang nghiêm thanh tịnh, không có núi, ụ, gò, đồi, đá, cát, các thứ cấu uế xấu ác. Đất nơi ấy mềm mại như Y Ca Lăng Già.
Đời không có năm trược, cũng không có người nữ, không có những người thuộc hàng Nhị thừa, thậm chí cả đến tên gọi của những người này cũng đều không có. Nơi ấy chỉ toàn là các Đại Bồ Tát vui thích đại thừa, hộ trì đại thừa, ưa giảng nói đại thừa.
Này Đại Bà La Môn! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì danh hiệu Chư Phật ấy mà còn bị đọa vào ba nẻo ác thì hoàn toàn không có chuyện đó. Trái lại, chắc chắn sẽ đạt được đạo quả Bồ Đề Vô Thượng.
Này Đại Bà La Môn! Do ý nghĩa ấy, sau khi ta Niết Bàn, Kinh này sẽ lưu truyền rộng rãi ở các nước phía Nam và khi chánh pháp sắp mất, hơn bốn mươi năm sẽ truyền đến phương Bắc.
Tại phương Bắc, có vị Vua tên An Lạc, khi thấy những ai thọ trì, biên chép Kinh quyển, đọc tụng, giảng nói, ông liền tùy thời đem bốn việc cung cấp, không để cho thiếu. Vào lúc ấy, ở phương Bắc có tám vạn bốn ngàn chúng sinh thọ trì Kinh này.
Này Thiện Nam! Nếu có người nào nghe Kinh này rồi lại buông bỏ, xa lìa thì hoàn toàn không có chuyện ấy.
Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào hết lòng cung kính, thọ trì danh hiệu Chư Phật, mà vẫn bị nạn binh đao, độc hại, lửa, nước, giặc cướp, thì hoàn toàn không có chuyện đó, ngoại trừ túc nghiệp của người ấy.
Lại nữa, này Đại Bà La Môn! Nếu trong bốn bộ chúng và các chúng sinh bên ngoài vì cúng dường, vì sợ hãi, vì muốn cho chánh pháp không bị hủy hoại mà phụng trì danh hiệu của Chư Phật thì trọn không còn đọa vào ba nẻo ác. Nếu vẫn bị rơi vào ba nẻo ác thì chuyện này không bao giờ có.
Khi ấy, Bà La Môn Thiện Đức thưa: Bạch Thế Tôn! Có những chúng sinh nghe tên Kinh này hãy còn đạt được vô lượng thiện lợi như vậy huống chi là những người thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói.
Nếu ai được nghe danh hiệu Chư Phật kia thì người ấy đã đạt được bảo lớn vô thượng, quả vị bồ đề vô thượng đã ở trong tầm tay của họ. Chư Phật Như Lai đã đến nhà họ. Đất nơi ấy là Kim Cang, thân họ cũng vậy, tâm vững chắc không động, không thể di chuyển.
Bạch Thế Tôn! Nay con cũng sẽ cung kính cúng dường những người như vậy.
Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này Đại Bà La Môn! Ông nay đã khéo nhận biết, khéo lãnh hội diệu lực công đức của Như Lai. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu Phật mà cung kính, tin tưởng, không nghi, không sợ, thì chúng sinh ấy sẽ không còn các nỗi sợ hãi như: Nỗi sợ hãi của Vua, nỗi sợ hãi của con người, nỗi sợ hãi của loài quỷ.
Không còn các thứ bệnh tật, thường được làm đệ tử học đạo của Chư Phật, được tám bộ quỷ thần cùng quyến thuộc che chở, được Chư Phật nghĩ đến.
Lúc ấy, trong chúng hội có Vua Càn Thát Bà tên Hỷ Kiến, liền rời khỏi tòa ngồi đứng dậy, bước tới chỗ Phật, cung kính chấp tay, bạch: Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, những chúng sinh nào có khả năng thọ trì Kinh này và truyền bá rộng rãi?
Những chúng sinh nào không có khả năng thọ trì và khiến pháp bị hủy diệt?
Đức Như Lai im lặng không trả lời.
Khi đó, Tôn Giả Đại Ca Diếp bảo Hỷ Kiến: Này thiện nam! Như Lai thật sự không có Niết Bàn, giáo pháp thật sự không bị diệt mất.
Vậy sao có thể nói là sau khi Như Lai diệt độ, ai có khả năng thọ trì Kinh này?
Vua Hỷ Kiến nói: Thưa đại đức! Tất cả chúng sinh do cuồng ngu, vô trí, cúi xin đại đức hãy tuyên nói lý do Như Lai không diệt độ. Tất cả chúng sinh bị ngu si u ám che lấp, cúi xin đại đức hãy thắp ngọn đèn chánh pháp để được bừng sáng. Vào đời vị lai, con cũng sẽ rộng vì tất cả chúng sinh mà khai phát ý nghĩa này. Cúi xin đại đức thương xót giảng nói rõ.
Tôn Giả Đại Ca Diếp nói: Này thiện nam! Pháp thân của Như Lai không gọi là nhục thân. Thân Phật là kim cương, chẳng phải là thân bị hủy hoại. Thân ấy đã thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Còn thân phương tiện, không gọi là thực thân.
Thân như vậy sao nói là diệt độ?
Vua Hỷ Kiến nói: Thưa Đại Đức! Nay con biết chắc là Như Lai Thế Tôn chỉ là phương tiện vào Niết Bàn chứ chẳng phải diệt độ một cách rốt ráo.
Tôn Giả Đại Ca Diếp khen: Lành thay! Thật đúng như ông nói.
Thiện Nam! Biển cả có thể đo lường, nhưng công đức của Như Lai thì không thể lường tính.
Vua Hỷ Kiến hỏi: Khi nào Như Lai sẽ rốt ráo diệt độ?
Tôn Giả Đại Ca Diếp đáp: Giả sử tất cả mọi chúng sinh cho đến những loài như: Muỗi, kiến v.v… thảy đều đạt quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, nhập vào Niết Bàn, thì khi ấy Như Lai mới Niết Bàn.
Vua Hỷ Kiến hỏi tiếp: Thưa Đại Đức! Như Lai thành tựu công đức vô lượng vô biên như vậy, thế tại sao tất cả chúng sinh không phát tâm cầu đạt đạo quả bồ đề vô thượng?
Đúng là khổ thay! Vì phước mỏng, chúng sinh không biết thân Kim Cang thường trụ bất biến của Như Lai chẳng phải là thân tạp thức.
Đại Đức! Với thân như vậy, ngoài Phật ra các hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể nào biết được.
Tôn Giả Ca Diếp lại nói: Này thiện nam! Tất cả chúng sinh đều có tánh Phật, đạt được tâm bồ đề.
Khi thuyết giảng phần pháp này, có hai vạn hai ngàn Thiên Tử đều phát tâm cầu đạt đạo quả bồ đề vô thượng, tất cả dị khẩu đồng âm cất lời nói kệ:
Như Lai không Niết Bàn
Chân pháp không có diệt
Vì các hàng chúng sinh
Thị hiện có diệt độ.
Như Lai thường, chẳng diệt
Vì chúng, phương tiện nói
Như Lai không nghĩ bàn
Pháp, Tăng cũng như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Mười Sáu
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Sáu Thanh Tịnh
Phật Thuyết Kinh Phật Bổn Hạnh - Phẩm Hai Mươi Sáu - Phẩm Ma Khuyên Xả Thọ Mạng
Phật Thuyết Kinh Bản Sự - Phẩm Một - Phẩm Một Pháp - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Bốn - Phẩm điểu Dụ