Phật Thuyết Kinh đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật đa - Phẩm Mười - Phẩm Bát Nhã Ba La Mật đa - Tập Ba
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Đề Vân Bát Nhã, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA LÝ THÚ LỤC BA LA MẬT ĐA
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư
Đề Vân bát nhã, Đời Đường
PHẨM MƯỜI
PHẨM BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
TẬP BA
Đức Phật dạy Từ Thị: Đại Bồ Tát có bảy việc để đạt pháp môn vô tận không thể nghĩ bàn.
Đó là:
1. Nhân vô tận.
2. Hữu tình vô tận.
3. Giới vô tận.
4. Đại bi vô tận.
5. Diệu dụng vô tận.
6. Pháp môn vô tận.
7. Phá hoại ma sinh tử nên có trí vô tận.
Như vậy, bát nhã Ba la mật đa không hành, không tướng, không sinh cũng không diệt. Bồ Tát ở trong tất cả pháp phải biết như vậy.
Khi Đức Phật nói bát nhã Ba la mật đa thâm sâu này, trong hội có ngoại đạo tên Vi Mạt Để rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ngài nói tất cả pháp xưa nay không sinh, tự tánh thanh tịnh, nghĩa này không đúng.
Tự Tại Thiên là thường, là cha mẹ của tất cả vạn vật sinh ra các pháp, có thể tạo tác, xếp đặt thế gian. Lại nói rằng, thần ngã có thể sinh ra tất cả các pháp, nhưng ngã này trụ trong tâm lớn giống như ngón tay cái.
Ngài đã nói rằng, tất cả pháp do hòa hợp sinh ra, vì sao nay nói là không sinh?
Đức Thế Tôn dạy Vi Mạt Để: Ta sẽ theo ý ông mà trả lời những câu hỏi trên để đoạn trừ sự nghi ngờ của ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ.
Như ông đã nói: Tự Tại Thiên là thường, có thể sinh ra tất cả. Như vậy, thì tất cả vạn vật được sinh phải đồng một tánh là thường. Nếu nói đã sinh thì trước sau biến đổi không thường trụ, theo lý thì không đúng.
Vì sao?
Vì dụng không lìa thể nên là thường trụ, thể không lìa dụng thì chẳng phải thường.
Tự Tại Thiên là thường có thể sinh thì phải thường sinh, vì sao có lúc sinh, có lúc không sinh?
Đã không thường sinh thì sao gọi là thường?
Vì nghĩa này cho nên đồng với chỗ sinh kia nhất định là vô thường. Cái sinh ra đã nhiều tức không phải là một.
Nếu là một thì không có gì sai khác, nhưng muôn loài có từng loại riêng biệt, như vậy sao gọi là một?
Lại nữa, Tự Tại Thiên hay sinh ra tất cả mà không có lòng từ bi.
Nếu có lòng từ bi thì nên làm cho hữu tình đều sinh lên Cõi Trời, Người để hưởng sung sướng, tại sao làm cho các hữu tình chịu tám khổ, sinh trong ba đường ác chịu đủ các khổ?
Nếu có lòng từ bi tại sao tự sinh, tự sắp xếp, tự hại hữu tình?
Nếu Tự Tại Thiên là một, là thường thì sinh ra tất cả không bị biến đổi, tại sao các loài khác sinh diệt vô thường, trong năm cảnh giới chịu sự bất tịnh riêng biệt?
Ví như thấy quả thì biết ngay nhân của nó. Nên biết Tự Tại Thiên không thường, không phải một. Nếu tốt đẹp là do Tự Tại Thiên, còn thô ác bất thiện là do Quỷ Tất Xá Giá làm ra, nói như vậy thì không đúng lý.
Nếu thiện là do Tự Tại Thiên, còn ác là do Quỷ Xá Giá, thiện ác trái nhau, sao gọi là tự tại?
Lại nữa, hữu tình tạo ác thì nhiều, người tu thiện thì ít, tức là Quỷ Tất Xá Giá thắng vượt Trời Tự Tại. Hữu tình tạo các điều lành là phần của Tự Tại Thiên, tạo các điều ác là do Quỷ Xá Giá dạy bảo. Đệ tử của các ông luôn nói như vậy: Làm lành sinh lên Trời, làm ác đọa địa ngục.
Nếu nói sinh lên Trời, đọa địa ngục là do tạo thiện ác, thì tại sao nói do Tự Tại Thiên tạo nên?
Giống như Vua ra lệnh ban cho quan tước, của cải, nhưng chỉ nói Vua ban cho, chứ không nói là người tuyên mệnh lệnh. Lại như Vua sai người giết, nhưng chỉ nói Vua giết chứ không nói đồ tể.
Nếu làm lành thì quy về Tự Tại Thiên, còn tạo ác thì quy về Quỷ Tất Xá Giá, vậy thì vì sao hữu tình chịu khổ vui?
Do đó nên biết, Tự Tại Thiên nhất định không thể tạo ra tất cả.
Nếu nói một thì vì sao hữu tình sinh ra vô lượng tâm thiện ác?
Cho nên biết rằng không phải một.
Nếu nói tất cả do Tự Tại Thiên tạo ra thì phải thuần thiện, sao lại có ác?
Giống như có người, có khi ở chỗ đông người tạo ra nhiều việc ác thì đó là người ác. Nếu chúng sinh làm ác do Tự Tại Thiên thì cả thế gian này đều nói là tội nhân địa ngục, vì tự tạo nghiệp ác.
Vì sao riêng ông đả kích Tự Tại Thiên?
Như có người chê người khác tạo ác thì mắc vô số tội, nay ngươi chê bai Tự Tại Thiên, bị mắc tội cũng vậy.
Này Vi Mạt Để! Tự Tại Thiên tạo tội như trên, còn tội lỗi của thần ngã nhiều gấp bội.
Nếu ngã là thường có thể tạo tác thì thân này đi đứng phải được tự do, không ai hại được, vì sao phải khóc lóc sợ chết?
Nếu ngã là thường thì phải nhớ nghĩ quá khứ đã tạo nghiệp, bây giờ phải chịu khổ báo, cho nên đời này không tạo nghiệp ác nữa. Nếu ngã là thường thì phải tự tại, không già yếu mà phải luôn luôn trẻ khỏe, giống như cởi áo cũ mặc áo mới.
Vậy tại sao có già, bệnh, chết?
Do đây nên biết, ngã không thể tạo tác.
Này Vi Mạt Để! Ta quán các pháp cũng chẳng phải do nhân duyên hòa hợp sinh ra.
Vì sao?
Vì nhân là vô sinh, nếu nhân có sinh thì không cần đợi duyên. Tánh vô sinh của duyên lại cũng như vậy. Nếu nói do nhân duyên hòa hợp với ngã thì cũng không đúng. Giống như hai người mù đứng riêng ra thì không thể thấy màu sắc mà nếu đứng chung một chỗ cũng không thấy.
Nên biết, nhân duyên hòa hợp với thần ngã cũng không thể sinh ra các pháp. Nếu có thể sinh thì đó là vô thường, vì có tác dụng. Như vậy, những gì được sinh ra nhất định là vô thường, cho nên biết rằng lìa sở sinh ra thì không có cái năng sinh nào riêng khác. Có người nói năm đại cực vi là thường có thể sinh ra các pháp, như vậy cũng không đúng. Giống như nước hòa hợp với gạo thành rượu, uống vào thì say.
Như vậy năng lực làm say không phải do bên ngoài, chẳng phải do bên trong của nước sinh ra, cũng chẳng phải phát sinh từ gạo, mà do nước và gạo hòa hợp mà biến thành rượu. Như vậy, tất cả các pháp không có tác giả, cũng không có ngã để làm nhân duyên.
Vì sao?
Vì đại địa, hư không, thủy, hỏa, phong giới cũng như vậy, có lẽ nào vật vô tình sinh ra hữu tình hay sao?
Tất cả các pháp giả thì có mà pháp thật thì không, chẳng phải Tự Tại Thiên, chẳng phải thần ngã, chẳng phải nhân duyên hòa hợp, chẳng phải năm đại mà sinh ra. Cho nên biết rằng, bản tánh của tất cả các pháp không sinh, chỉ do duyên huyễn chuyển hóa mà có, không đến, không đi, không đoạn, không thường, thanh tịnh tròn đầy, là chân bình đẳng.
Khi ấy Đức Thế Tôn nói kệ:
Tất cả pháp hữu vi
Như thành Càn Thát Bà
Tâm chúng sinh vọng chấp
Tuy hiện chẳng thật có.
Các pháp không nhân sinh
Cũng chẳng phải không nhân
Có là do vọng tưởng
Cho nên nói duy tâm.
Vô minh mà vọng thấy
Là nhân của sắc tướng
Tàng thức làm chỗ dựa
Tùy duyên hiện các hình,
Như người mắt bị bệnh
Thấy hoa đốm trên không
Tập khí quấy đục tâm
Theo ba cõi mà hiện.
Nhãn thức nương lại da
Hiện ra đủ thứ sắc
Như bóng ở trong gương
Phân biệt không ở ngoài.
Thấy biết đều do tâm
Không thường cũng không đoạn
Do thức lại da biến
Mà hiện ở thế gian.
Pháp tánh đều bình đẳng
Chỗ dựa của các pháp
Tàng thức hằng không đoạn
Mạt na chấp làm ngã.
Tập khởi nói là tâm
Tánh suy lường là ý
Nghĩa phân biệt là thức
Cho nên nói duy tâm.
Các cảnh giới ngoài tâm
Vọng thấy như hoa đốm
Chấp thật có đều không
Đều do tâm thức biến.
Sắc và công năng sắc
Đều nương thức Lại da
Phàm phu vọng phân biệt
Cho là chân thật có.
Thùy miên và hôn mê
Đi, đứng và ngồi, nằm
Tạo nghiệp và quả báo
Đều do tàng thức sinh.
Hữu tình và vô tình
Chẳng phải tự tại sinh
Chẳng phải thần ngã tạo
Chẳng phải tánh vi trần.
Như tánh lửa trong cây
Dù có nhưng không cháy
Nhờ dùi mới có lửa
Do đó trừ tối tăm.
Xoay vần làm nhân duyên
Lại da làm chỗ dựa
Các thức theo đó sinh
Khởi lên lậu, vô lậu.
Như biển gặp duyên gió
Nổi lên các sóng dữ
Hiện tiền luôn chuyển biến
Không bao giờ gián đoạn.
Biển tàng thức cũng vậy
Gió cảnh giới làm động
Luôn khởi các sóng thức
Không bao giờ gián đoạn.
Như bơ chưa khuấy động
Không ai thấy được lạc,
Ra công không gián đoạn
Mới có được đề hồ.
Lại gia vọng huân tập
Che lấp Như Lai tạng
Khi tu tập thuần thục
Chánh trí mới sáng tỏ.
Các thức chuyển theo duyên
Không thấy tâm bản giác
Trí tự giác hiện tiền
Chân tánh luôn bất động.
Giống như vàng trong quặng
Dính đá không thể dùng
Nấu lọc được vàng ròng
Làm các đồ trang sức.
Tánh Lại da thanh tịnh
Bị vọng thức huân tập
Viên cảnh trí tương ưng
Như mặt trời thoát mây.
Ai tu tập về không
Theo không chấp giữ không
Quán không khác với sắc
Không gọi người chân quán.
Quán sắc tức là không
Sắc, không chẳng thể đắc
Đây là Thắng nghĩa không
Là người chân giải thoát.
Khách trần không tự tánh
Vô minh vọng phân biệt
Thật tướng không hữu, vô
Do chúng sinh vọng thấy.
Như ánh sáng nhật nguyệt
Tỏa sáng khắp mọi nơi
Như Lai thanh tịnh tạng
Đầy đủ các công đức.
Chân, vọng hòa lẫn nhau
Như hai voi thi đấu
Con yếu bỏ chạy luôn
Vọng hết, không sinh lại.
Tánh hoa sen không nhiễm
Khỏi nước lìa bùn dơ
Đến khi hoa sen nở
Ai thấy đều ưa thích.
Như Lai, vô cấu tạng
Xa lìa các tập khí
Trí thanh tịnh tròn sáng
Chỗ Hiền Thánh quay về.
Như châu bảo tối thắng
Không có chút tỳ vết
Luân vương làm mũ báu
Thường đội trên đỉnh đầu.
Như Lai thanh tịnh tạng
Không có các phân biệt
Thể đủ hằng sa đức
Pháp thân của Chư Phật
Trụ vào cảnh vô lậu
Thanh tịnh giải thoát thân
Tịch diệt như hư không
Tánh pháp không đi, đến
Phật hiện trong ba cõi
Không sinh cũng không diệt
Cõi này và phương kia
Y nhiên, luôn bất động.
Bình đẳng chân pháp giới
Phật cũng như chúng sinh
Không đoạn, cũng không thường
Đại bi không cùng tận.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh đại Tế Tự - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Xưng Tán Như Lai Công đức Thần Chú
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Tám Mươi Sáu - Phẩm Bình đẳng
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Saleyyaka
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Năm Và Ba - Phần Bốn - Niết Bàn Hiện Tiền
Phật Thuyết Kinh Trung A Hàm - Phẩm Một - Phẩm Bảy Pháp - Kinh Thiện Nhân Vãng