Phật Thuyết Kinh đại Tịnh Pháp Môn - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI TỊNH PHÁP MÔN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN HAI
Khi ấy, Trời Rồng, Quỷ Thần, Càn Đạp Hòa, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân Phi Nhân, Thích Phạm, Tứ Thiên Vương đều vâng lời và cùng nhau đến chỗ Văn Thù Sư Lợi hiện nửa thân và mưa hoa Trời ngập cả đại thành Vương Xá.
Ngay lúc này, mặc dầu Chư Thiên thấy gặp người người thấy gặp chư thiên nhưng tất cả đều an ổn, không ai tranh giành ồn ào. Hàng ngàn người trong thành Vương Xá nhặt hoa của Chư Thiên rải đem đến chỗ Văn Thù Sư Lợi. Vua A Xà Thế cùng bốn bộ chúng hậu cung thể nữ, đại thần, bách quan, các vua nhỏ đều đi đến chỗ Văn Thù Sư Lợi.
Thấy Thượng Kim Quang Thủ với oai dung rực rỡ, các căn điềm tĩnh, các Tôn Giả, trưởng giả Tử, Thái Tử, Quần Thần phá tan các trần lao, lìa điên đảo, trang hoàng thân bằng đức thù diệu và không còn dấy lên những ý tưởng tham dục.
Văn Thù Sư Lợi nói với Thượng Kim Quang Thủ: Hôm nay mọi người đến đây hội họp, vì nguyên do nào mà không còn nhiễm trước vậy?
Trước đây bị trần dục sao bây giờ được an lạc tự tại?
Cô gái thưa Văn Thù Sư Lợi: Dục trần lao của tất cả chúng sanh được kiến lập nơi ý chí trí huệ thoát bổn tế, trụ vào vô bổn của pháp giới. Vô bổn là như vậy không có sai khác, không sanh không diệt cũng không có xứ sở. Dục trần ấy là bổn tịnh, phân biệt bình đẳng.
Văn Thù hỏi: Sao nói dục trần là bổn tịnh?
Cô gái trả lời: Vô tưởng bất tưởng, vô ứng bất ứng, nên dục trần này là bổn tịnh. Tuy dục trần tùy thuận với hành nhưng không sanh khởi đó là bổn tịnh. Nên biết rằng dục trần là khách qua lại, hiểu rõ không huệ ở chung một nhà với đạo.
Huệ vô tướng, huệ vô nguyện, minh của bổn tịnh đều ở chung với nhau, quán sát pháp này đều là vô sở hữu. Ví như con rắn ngậm độc hại người. Nếu có người mang đến thuốc hay thì có thể làm trừ đi chất độc.
Ðược thuốc, chất độc rắn không còn nữa. Biết rắn không còn khí độc, trai gái lớn nhỏ cùng đùa giỡn quấn nó trong chân mà không bị hại và cũng không bị nọc độc cắn người. Người như vậy vốn chưa từng nghe pháp luật, nghĩ đến những việc không thích hợp nên bị điên đảo, ở trong trần dục bị thiêu đốt.
Tự mình tham dục chìm đắm vào sắc đẹp. Ðã quán rõ sắc như đống bọt thì biết thân pháp giống như huyễn hóa. Biết rõ sự vui thú giống như mộng, hiểu rõ ái dục như bọt nước. Mạng người như sương mai, vạn vật đều vô thường. Hiểu rõ các ấm như não hoạn, biết thân bất tịnh đều qui về không.
Quán tất cả pháp đều vô ngã. Suy nghĩ đúng đắn từ gốc đến ngọn đều là hư vọng, không hủy báng người khác, không tự khen mình, cũng không tự trói buộc mình hay trói buộc người khác. Hôm nay được nghe ngài giảng pháp, tôi đã tin ưa và được giải thoát. Cho nên mắt thấy mà không bị đắm nhiễm.
Vì sao?
Vì theo những việc cần làm ở trong trần lao mà Ngài đã nói thì trần không có dục cấu, vậy ai bị dục cấu?
Thượng Kim Quang Thủ thưa Văn Thù Sư Lợi: Tất cả chư thiên, nhân dân trong đại hội sẽ không lo sợ, vì họ suy nghĩ đúng như pháp đã giảng. Nay chư thiên hiểu rõ dục trần vốn thanh tịnh, vậy nên thương xót tất cả để họ phát tâm vô thượng chánh chân.
Văn Thù Sư Lợi nói: Tuy dục trần vốn thanh tịnh nhưng người tin ưa rất ít.
Vì sao?
Vì họ không hiểu. Nếu giác ngộ trần là thanh tịnh thì được thành đạo rồi. Ví như không có lửa thì không thể thiêu cháy người.
Cũng vậy nên biết rằng: Niệm vô tưởng thì không còn chấp ngã, ví như làm lửa bùng cháy rồi tự thiêu đốt mình.
Như vậy nên biết! Do những ý niệm thuộc vọng tưởng và tham dục trần lao mà tạo ra thân sanh tử. Giống như củi sanh ra lửa, rồi ngọn lửa cháy bùng lên. Như vậy nên biết một khi tà kiến điên đảo phát sanh thì ba cõi trần lao bị thiêu đốt. Cũng như sau khi lửa đã được dập tắt thì không còn ánh sáng của ngọn lửa.
Như vậy nên biết điên đảo đã được ngưng lại thì trần lao không còn phát sanh, tức là ở trong ba cõi mà không có dính bụi dơ. Cũng như lửa đã dập tắt trăm ngàn năm con người không nghi ngờ lo sợ khói tro tàn.
Như vậy nên biết qua nhiều kiếp tập theo dơ uế của dục trần. Nhưng nếu đã quán rõ ràng nó rồi thì không còn gì cất giữ nữa, ví như lửa đã dập tắt ráo không còn tác dụng nữa. Nếu minh huệ tĩnh lặng thì trần lao không phát sanh.
Như lửa trong thân nóng ấm, mặc dầu nó có đầy trong thân nhưng không bị cháy. Như vậy xét thấy tâm ấy vốn thanh tịnh sáng suốt vời vợi. Dù khách trần muốn nổi lên nhưng không bao giờ làm ô nhiễm nguồn tâm.
Khi ấy Văn Thù Sư Lợi hỏi cô gái: Phải quán sắc thân như thế nào?
Cô gái trả lời: Như bóng trăng trong nước.
Văn Thù hỏi: Quán thân năm ấm như thế nào?
Cô gái trả lời: Như hóa Như Lai mà không hóa.
Văn Thù hỏi: Quán các chủng như thế nào?
Cô gái trả lời: Như thủy giới, hỏa giới.
Văn Thù hỏi: Nên quán các nhập như thế nào?
Cô gái trả lời: Như những hành động về tội phước mà không có nhơn duyên.
Văn Thù hỏi: Làm thế nào để quán các hội này?
Cô gái trả lời: Làm chiếu diệu tâm tánh của người trong hội.
Văn Thù hỏi: Quán trở lại thân như thế nào?
Cô gái trả lời: Giống như cha mẹ của mình, xem bình đẳng không có hai.
Lại hỏi: Quán thân như thế nào?
Trả lời: Giống như người mù không thấy các màu sắc.
Lại hỏi: Từng nghe pháp này như thế nào?
Trả lời: Ðã nghe pháp ấy như nghe việc thầy ảo thuật hóa người.
Lại hỏi: Thế nào?
Chẳng lẽ ngươi vì đạo ấy mà phát tâm đạo vô thượng chánh chân sao?
Trả lời: Ðạo ấy tôi không có chí cầu tìm.
Lại hỏi: Làm thế nào để thực hành thí độ vô cực?
Trả lời: Tu tất cả độ để xả bỏ trần lao.
Lại hỏi: Làm thế nào để đầy đủ giới độ vô cực?
Trả lời: Làm đầy đủ như hư không.
Lại hỏi: Làm thế nào để phụng hành nhẫn nhục?
Trả lời: Tuân hành tất cả, đối với các pháp không sanh không khởi.
Lại hỏi: Làm thế nào để hành siêng năng tinh tấn?
Trả lời: Tu hành các pháp không bị ngưng trệ.
Lại hỏi: Làm thế nào để kiến lập tịnh độ vô cực?
Trả lời: Kiến lập pháp giới, trụ mà không có chỗ trụ.
Lại hỏi: Làm thế nào để đầy đủ trí độ vô cực?
Trả lời: Chí không kiêu mạn, tâm không tự đại.
Lại hỏi: Hành từ như thế nào?
Trả lời: Hiểu rõ tất cả chúng sanh đều vô sở hữu.
Lại hỏi: Nên cầu Bồ Tát đại bi ở đâu?
Trả lời: Nên cầu trong trần lao của chúng sanh.
Vì sao?
Vì muốn chế ngự trần lao chúng sanh, Bồ Tát đại bi phải phát tâm đạo vô thượng chánh chân.
Lại hỏi: Nên cầu Bồ Tát hành hỷ ở đâu?
Trả lời: Tâm mình chân thật, bản tánh thanh tịnh, hóa giải các sầu lo, đó là Bồ Tát Hỷ.
Lại hỏi: Làm thế nào để đầy đủ Bồ Tát hành xả?
Trả lời: Hóa giải trọn vẹn những sự tranh cãi đấu tranh của chúng sanh để đưa đến sự hòa thuận.
Lại hỏi: Sao gọi là tranh cãi?
Trả lời: Vứt bỏ những việc không thật hư ngụy của trần lao, lập chí vững vàng với đạo Phật.
Lại hỏi: Tranh cãi với ai?
Trả lời: Với bọn ngoại đạo tà kiến dị học, người không hợp ý.
Lại hỏi: Bọn học tà dị làm gì?
Trả lời: Thấy người khác hưng thịnh lên mình không nhịn nổi rồi chạy theo họ.
Lại hỏi: Vì sao Bồ Tát nhẫn nhục lập chí hướng?
Trả lời: Vì giáo hóa tất cả chúng sanh.
Vì sao?
Vì nếu không khai mở giáo hóa thì sao gọi là nhẫn nhục hóa độ chúng sanh. Không sân kết hận, không lo buồn đó là nhẫn nhục.
Lại hỏi: Sao gọi là nguy hại?
Trả lời: Tích lũy đức bổn mà làm việc ưu não đó là nguy hại.
Lại hỏi: Sao gọi là vô hại?
Trả lời: Các giới không lo là liêm khiết nhơn nghĩa. Ðó gọi là vô hại.
Lại hỏi: Sao gọi là Bồ Tát chọn lựa chiến đấu?
Trả lời: Chọn lựa các pháp mà không nhận pháp nào cả.
Hỏi: Thế nào là Bồ Tát chiến thắng ma?
Trả lời: Vì không chấp trước nên không diệt trần lao.
Vì sao?
Vì Bồ Tát chiến thắng năm ấm nên không tương ưng với trần lao. Do đó mà Bồ Tát chiến thắng ma, dẹp sạch bụi trần, không ô nhiễm vốn thanh tịnh, hiểu rõ rốt ráo các pháp xưa nay, khai hóa chúng sanh, giải trừ hoạn nạn lão tử.
Và nói với Thiên Tử: Bồ Tát Văn Thù đã xa lìa tất cả trí và các thông huệ tưởng.
Hỏi: Bồ Tát khai hóa chúng sanh như thế nào?
Trả lời: Chuyên giữ thiện quyền tu hành trí huệ.
Hỏi: Bồ Tát xây dựng chúng sanh như thế nào?
Trả lời: Xây dựng tâm mình đạt được thánh huệ rồi Bồ Tát mới có thể khai hóa tất cả quần sanh.
Hỏi: Nay Ngài giảng pháp này, chúng hội đều được tiếp thu tốt chứ?
Trả lời: Chúng hội không được tiếp thu tốt.
Vì sao?
Vì còn ý tưởng về bỉ thử, ngược lại họ cố xây dựng nơi thức.
Hỏi: Làm thế nào để người nghe pháp được một cách hoàn hảo?
Trả lời: Nếu ai tin chính mình như mộng, Kinh pháp vị ấy giảng như thầy huyễn biến hóa ra những âm thanh giả, mà không chấp vào âm thanh ấy và không tạo giải thoát. Có hai việc ấy thì mới gọi là tiếp thu pháp một cách hoàn hảo.
Hỏi: Làm sao để được thọ lãnh nghĩa lý của pháp?
Trả lời: Ðó là qui mạng pháp của Văn Thù Sư Lợi. Nhờ oai thần của Văn Thù Sư Lợi đồng chơn đã kiến lập và nhờ trí huệ đã tu tập xưa kia nên Thượng Kim Quang Thủ ở giữa chúng nói pháp rất hợp lý.
Một vạn hai ngàn người phát tâm đạo vô thượng chánh chân. Năm trăm Thiên Tử nhờ đã trồng phước đức từ kiếp trước lập chí Bồ Tát thừa nên đắc khởi pháp nhẫn. Ba vạn hai ngàn Trời, người xa lìa các pháp trần cấu đắc pháp nhãn tịnh.
Sau khi nói pháp xong, cô gái rất hân hoan liền đắc nhu thuận pháp nhẫn và đê đầu lạy sát chân Văn Thù Sư Lợi, thưa: Cúi xin đấng Chí Thánh cho con được làm Sa Môn. Hãy thương xót cứu thoát những ý niệm không chính đáng, những hành nghiệp của chúng sanh. Vì đó đều chẳng phải là Hiển quán.
Khi ấy Văn Thù Sư Lợi nói: Bồ Tát không cho rằng bỏ râu tóc của mình là xuất gia.
Vì sao?
Vì nếu đoạn trừ trần dục của chúng sanh, để tinh tấn tu hành, đó chính là sự xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho rằng tự mình mặc áo Ca Sa là xuất gia. Vì Ca Sa đời Tấn gọi là khử uế.
Nghĩa là trừ bỏ mọi dơ bẩn dâm nộ si của chúng sanh khiến không còn chút tỳ vết, thường thực hành tinh tấn. Ðó chính là sự xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho rằng tự mình giữ gìn cấm giới là xuất gia.
Mà không những mình giữ gìn mà còn chỉ dạy chúng sanh phải giữ gìn cẩn thận. Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không lấy việc mình ở nơi thanh vắng là xuất gia. Nếu có thể kiến lập chúng sanh trong năm đường vào huệ yên tĩnh.
Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không lấy việc dung mạo, hình dung. Oai nghi, lễ bái là xuất gia. Mà giáo hóa các lê dân khuyên họ sống với lòng từ bi đó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho mình có công đức là xuất gia.
Mà khuyên dạy làm thấm nhuần tất cả chúng sanh, vun xới gốc đức. Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho mình đã giải thoát lập chí vào diệt độ là xuất gia. Mà giải thoát tất cả tâm tánh chúng sanh để đạt đến diệt độ.
Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho mình trừ trần lao là xuất gia. Mà diệt bỏ tất cả trần lao của chúng sanh, đó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không vì giữ cho riêng thân mình, giữ chặt tâm là xuất gia.
Mà phải bảo hộ tâm chí cho tất cả quần manh. Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho tự mình giải thoát là xuất gia. Mà độ thoát tất cả quần manh trong luân hồi. Ðó mới là hạnh xuất gia của Bồ Tát.
Bồ Tát không cho cứu nạn sanh tử của chính mình là xuất gia. Mà độ thoát hết hoạn nạn sanh tử của tất cả chúng sanh. Ðó mới là hạnh xuất gia của Bồ Tát. Bồ Tát không cho sự thích Nê hoàn là xuất gia. Mà đầy đủ các pháp của Chư Phật. Ðó chính là hạnh xuất gia của Bồ Tát.
Ban bố lòng từ bi thương xót chúng sanh, không tìm kiếm lỗi người, không nói những lầm lỗi của họ, khen ngợi đức lòng tin của người, chỉ dạy tín hạnh và đem bố thí cho tất cả. Nghĩa xuất gia là như vậy. Nếu xuất gia nương vào người khác đó là Bồ Tát không chỗ nương tựa.
Cô gái hỏi Văn Thù Sư Lợi: Sao gọi là xuất gia nương nhờ vào người khác?
Trả lời: Người xuất gia nương tựa vào giới cấm, lại không lấy việc trì giới để xuất gia. Ngươi muốn biết điều này nên lập chí vào thiền định không phóng dật. Người xuất gia nương vào huệ, không đi theo với bạn ác, tuân hành môn giải thoát đó là xuất gia. Nếu tâm chưa giải thoát thì không phải là xuất gia.
Cô lại hỏi: Sao gọi là Bồ Tát không nương tựa vào người khác?
Văn Thù trả lời: Không tin người nào cả là không nương tựa, cũng không dò xét để nhìn nhan sắc người. Có trí huệ gì đều do sự nhận định sáng suốt của mình. Những người ấy có đức lạ gì đều do đạt được các đại huệ thông không mong cầu gì cho bản thân mình.
Ðây gọi là không dựa vào người khác. Khi Văn Thù Sư Lợi nói phẩm xuất gia này thì có năm trăm Bồ Tát cởi trân bảo anh lạc đang đeo nơi thân cúng dường Văn Thù Sư Lợi.
Tất cả đều nói: Nghe ngài dạy về giáo lý hoàn hảo việc xuất gia, chúng tôi sẽ nương nơi chánh nghĩa này mà thực hành đầy đủ hạnh xuất gia.
Khi ấy Văn Thù Sư Lợi nói với Thượng Kim Quang Thủ: Cô hãy lên xe tứ mã, đem giáo pháp này khai thị giáo hóa cho Úy Gian con trưởng giả. Ðó là hạnh xuất gia của ngươi đấy.
Bấy giờ đại chúng đều suy nghĩ: Chẳng lẽ người còn dục và người ly dục ở chung với nhau sao?
Biết tâm niệm của đại chúng, cô gái liền giải thích: Bồ Tát ly dục và chúng sanh còn dục đều phát sanh cùng một lúc, chỉ vì muốn khai thị giáo hóa cho họ sáng suốt.
Chư vị nên biết: Bồ Tát lìa sân giận ngu si thì sống chung với hạng người sân giận ngu si. Vì muốn giáo hóa ban bố lòng từ và sự sáng suốt. Nếu Bồ Tát đã lìa trần lao thì cùng sống chung với hạng người tham dục để giáo hóa những kẻ dâm dật. Ví như con người, mẹ con sống chung với nhau nhưng không bị ô nhiễm. Cũng vậy, Bồ Tát luôn ở chung với tất cả chúng sanh nhưng không bị ô nhiễm.
Ví như người đánh đàn cầm và thầy chú thuật. Mặc dầu tập làm theo sở thích nhưng không thích. Cũng vậy, Bồ Tát ở trong tưởng niệm của ba cõi, như thần chú thuật không bị đắm nhiễm.
Khi ấy đã đến đúng thời cơ, Thượng Kim Quang Thủ đã thấu đạt nghĩa pháp, được sáng suốt lìa các tối tăm, thấy rõ trần lao khai mở chơn đế, đê đầu lạy sát chân Văn Thù và đi nhiễu ba vòng rồi lên lại trên xe, nói kệ: Bổn tánh là thanh tịnh. Tham dục không làm dơ, thì không còn sân giận. Sanh trí huệ sáng suốt. Ðại đức được như vậy.
Rồi sau mới lên xe. Trước đây theo Úy Gian Huân tập việc phóng dật, tôi vốn lòng tham dục, nay đã được thấu rõ các lo sợ khổ nạn, ham muốn về tiền của. Lên xe đã vứt hết, nên cất tiếng ca tụng. Ví như trời tối đen. Mưa thấm nhuần đất đai.
Mặt trời che cung điện. Mắt người không thể thấy. Nó sáng rỡ không tối. Không đoạt mất ánh sáng. Do khách mây tạo ra để ánh sáng không hiện. Người ngu tâm vốn tịnh khách trần cũng như vậy. Do vọng tưởng không hiểu che ánh sáng trí huệ, ánh sáng ấy thông suốt không chừa nơi nào cả.
Ðã vứt bỏ trần lao thì gọi là trí huệ. Trí huệ không kiêu mạn tâm tịnh không tổn giảm. Suy ra không chỗ đến. Cũng không đi về đâu do niệm không chân chánh. Nên có dục trần lao. Ðã nghĩ đúng như pháp khởi mà không chỗ đến. Gọi không có xứ sở và cũng không có diệt. Không bày ra không đoạn. Cũng không dựa người khác.
Vui thay! Chánh pháp này vi diệu rất thanh tịnh. Ví như cây đèn dầu chiếu vào chỗ tối tăm. Người chỗ tối tăm ấy không biết đường quay về trí huệ cũng như vậy. Diệt trừ các ngu mờ không thấy chỗ trần lao. Theo ý mà tìm đến.
Ví như thầy thuốc giỏi. Trị liệu các chứng bệnh không để thân tăng giảm. Cũng không cho mất mạng. Bệnh như khách dạo chơi. Bệnh đó rồi hết ngay. Không còn bệnh nào khác. Không biết chỗ chẩn trị.
Thưa Ngài cũng như vậy: Dùng âm thanh hòa nhã. Thấy chúng sanh bệnh hoạn. Dùng nhiều thuốc trị liệu. Phủi dơ cho thanh tịnh. Hướng đến cửa giải thoát. Có người đã tạo tội Phi pháp không nên nói.
Nay năm ấm như vậy và với các đại chủng. Suy nhập đã hiển bày. Vốn không có sai khác. Hạng này ở trước đây có cùng độc sân giận. Nay không có tổn hại và không gì thay đổi. Khi ấy Thượng Kim Quang Thủ cùng đi chung xe với con trưởng giả đến vườn Du Quán Thanh Tịnh.
Văn Thù Sư Lợi giảng nói kinh điển tất cả chúng hội vui mừng hớn hở, tâm họ khai mở bỗng nhiên bừng sáng và họ đều nói: Hãy cùng nhau đến chỗ Như Lai để nghe giảng pháp. Thế rồi họ rời khỏi Du Quán đến Tịnh Xá của Phật.
Bấy giờ, Thượng Kim Quang Thủ và Úy Gian con trưởng giả ở vườn Du quán rải hoa, đốt hương, trang hoàng lộng báu, sắp dọn thức ăn uống, xướng ca hát nhạc cùng nhau vui chơi. Dùng hương bột pha lộn với nhau để làm phấn xoa ướp.
Thấy con trưởng giả và ý người trong hội đã hài lòng, cô gái dùng sức thần thông tự hóa thân của mình lập tức qua đời, nhan sắc biến thành xấu xí ghê gớm giống như người chết. Máu mũ trong tai mắt mũi miệng chảy ra.
Thân thể sình lên nát rữa ra không thể nhìn thấy được nữa. Trong miệng xuất ra mùi hối thối tanh rình. Tất cả lỗ chân lông hở ra. Bụng nứt ra, ngũ tạng ruột mật gan phèo phổi, tủy não đều chảy tràn lan. Ruồi nhặng bay đến bu xung quanh thân thể.
Thấy cô gái này biến thân như vậy, Úy Gian rất sợ hãi không an, muốn tìm chỗ nào để mình nương tựa thoát khỏi lo sợ. Nay gặp cảnh hãi hùng ghê sợ ấy, nên phải đi đâu để tránh khỏi ưu phiền khủng khiếp ấy.
Lại có hai nạn: Người phàm phu thấy các vết dơ về tội lỗi của mình sẽ không làm đế vương. A Xà Thế biết ách hại về mạng mình thì tất cả quyến thuộc và người trong hội sẽ kinh hãi run sợ.
Họ đều nói: Phải tìm ai là Trời rồng quỷ thần Nhược càn đạp, Sa Môn hay Phạm chí để cứu thoát đại ách. Con trưởng giả kia vốn không có đức, nghe Văn Thù Sư Lợi nói kinh và đối với những việc nên thi hành thì ông ta không hiểu rõ.
Nhờ oai thần của Văn Thù Sư Lợi đồng chơn làm cho cây trong vườn tự nhiên phát ra âm thanh khen ngợi rằng:
Những gì thiếu niên thấy.
Các pháp tự nhiên thế.
Ba cõi hư không thật.
Như thầy huyễn biến hóa.
Kẻ ngu bị mê hoặc che lấp,
Tâm thân khô
Suy nghĩ hư ngụy ấy.
Kẻ ngu bị ô nhiễm.
Nó như cái bình đẹp,
Trong chứa đầy bất tịnh.
Mà người không phân biệt.
Ðội trên đầu để đi.
Ðã biết trong đó có đập bể bình,
Sẽ thấy bất tịnh chảy tràn ra.
Không ôm nữa bỏ chạy.
Người không trí cũng vậy.
Cứ đắm chìm sắc nữ.
Nhìn thấy tướng hình dáng,
Tư tưởng bị ô nhiễm
Thiếu Niên nay nên quán
Sáng tỏ thân như vậy
Người trí không chấp trước
Tỳ vết hôi thối này
hiếu niên đừng sợ hãi
Không nên sợ hư ngụy
Trước đây người đã tạo
Các pháp vốn như vậy
Thế Tôn hiện nơi đời
Ban úy không còn sợ
Hiệu là Thích Sư Tử
Giảng nói pháp vi diệu
Ái dục không lâu dài
Ví như tia chớp điện
Tuy thấy mà không thật
Người trí không chấp trước
Ví như nước dòng sông
Muốn lấy đóng bọt nước
Không có ai làm được
Cũng không thành báo ứng
Danh sắc cũng như vậy
Không có người tạo tác
Vì có duyên tội phước
Nên sanh quả báo ứng
Thiếu niên hãy tự thấy
Nhan sắc do tụ họp
Bất tịnh từ đâu đến
Khiến người phải lo sợ
Pháp này không xứ sở
Cũng không đi về đâu
Không đi cũng không đến
Tự nhiên mà hóa hiện
Không có người tạo tác
Cũng không có người thọ
Pháp tạo không chỗ thọ
Như huyễn không có hình
Phóng đảng với người khác
Tuổi nhỏ do đó sợ
Nên tự quán thân mình
Cũng giống như hạng ấy
Như vui chơi trong mộng
Sung sướng và hớn hở
Những việc thích vui chơi
Như vừa tỉnh cơn mộng
Thiếu niên có thể đi
Ðến với Thích Sư Tử
Thế Tôn đại Thánh Nhân
Cứu vớt gốc lo sợ
Dù cho có cha mẹ
Quyến thuộc và bạn bè
Không thể nào diệt trừ
Hoạn nạn này cho người
Chỉ có Phật Thế Tôn
Mới ban bố vô úy
Hãy đến kính lễ
Phật Pháp và chúng
Ðại Thánh Chư Thiên,
Kiền đạp hòa
Nhân dân đều cúi đầu
Xa lìa tất cả nạn
Ðạt an ổn lợi lớn.
Nghe bài tụng này con trưởng giả rất vui mừng hớn hở, liền sanh thiện ý rồi đem hòm áo đựng tử thi của cô gái vứt giữa rừng rồi bỏ đi.
Vì muốn giáo hóa con trưởng giả, từ nơi thân Đức Thế Tôn phóng ánh sáng chiếu khắp cõi Ma Kiệt. Thiếu niên trông thấy Như Lai có chúng Tỳ Kheo vây quanh nghe pháp, giống như khi mặt trời mọc đường sá tự nhiên hiện lên đủ sự việc vi diệu vọi vọi, hành lang bằng châu báu và rãi các loại hoa.
Trời Ðế thích đứng phía trước khen ngợi: Thiếu niên được lợi ích tốt đẹp được phước đức vui vẻ nên phát tâm và an vui, thấy Như Lai với thân Phật cụ túc. Người như vậy trở về con đường chân chánh, muốn thấy ánh sáng và dung mạo Như Lai, nên phát sanh hạnh như thế. Nghe họ khen ngợi, thiếu niên cùng Trời Ðế Thích đến chỗ Phật.
Ðế thích đem hoa ý Trời đưa thiếu niên và nói: Hãy đem hoa này rãi cúng dường Thế Tôn.
Thiếu niên liền lấy hoa rải cúng dường Thế Tôn và đê đầu sát chân Phật rồi đi nhiễu ba vòng, thưa: Con nay xin quy y Phật, Pháp và Thánh chúng, con xin Ngài khuyến hóa giúp đỡ đạo vô thượng chánh chân.
Kính thưa Ðại Thánh! Có dâm nữ tên Thượng Kim Quang Thủ cô này người trong quận huyện châu thành ai đều biết. Cô đang vui chơi nơi vườn Du quán thì hôm nay nhan sắc tự nhiên biến đổi ghê gớm rồi qua đời, lìa bỏ tất cả dòng họ quyến thuộc thật đáng sợ hãi, không quốc vương nào tìm đến hỏi cả.
Phật nói: Thôi, thôi! Vì tham dục nên có sợ hãi. Ta sẽ ban úy hết nạn lo sợ. Người quy y Phật không nên sợ hãi. Nếu có sợ hãi thì phải đoạn trừ tận gốc của nó.
Thiếu niên hỏi: Do đâu mà lo sợ?
Thế Tôn dạy: Do dâm nộ si mà có sợ hãi. Do chấp ngã mà kiêu mạn tự đại và thấy điên đảo hợp ân ái, chấp ngã có thật và chuyển tham ái đưa đến đấu tranh.
Tự thấy thân mình bị trói chặt, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là lạc, không thân tưởng có thân, không kiến tưởng là thật, nhận lấy năm ấm để tạo nghiệp, quán bốn đại chủng vì tìm cầu các nhập có xứ sở, không thấy rõ thọ mạng và sự an nhàn của thân. Do đó mà đưa đến sự lo sợ, hãy vứt những ý ấy đi.
Ngươi có thấy thân hư hoại vữa nát của cô gái ấy không?
Thiếu niên thưa: Con đã thấy.
Phật dạy: Này thiếu niên! Tất cả các pháp đều sẽ biệt ly, là pháp khổ hoạn không thường còn. Sự ngu si tham lam cũng không lâu dài, thành tựu rồi cũng tan hoại, báo ứng tội phước thì nguy hiểm nhiều an lạc ít.
Sắc như huyễn hóa, như mộng, như bị sóng nắng làm mê hoặc. Sắc như bóng chiếu vụt qua, ví như bóng trong gương do nhân duyên hội họp mà có báo ứng tội phước rồi diệt mất. Như trăng trong nước thành đó rồi hoại đó. Như âm thanh không nói năng gặp duyên thì nó vang.
Như đi trong bóng mát bỗng chốc liền mất. Như co tay lại rồi duỗi tay. Tất cả đều do bổn tịnh sanh khởi tự do. Như gió không giữ lại được là hư ngụy không thật, không có gì phải hoảng hốt vì nó là hư ngụy. Theo ý mà đặt tên và nhờ nhân duyên tụ hội là mà thành. Tất cả các pháp không có chủ tể, nên chớ tham đắm vào nó.
Ý của thiếu niên thế nào?
Do thói tham dục rồi sanh tư tưởng sao?
Thiếu niên trả lời: Bạch Thế Tôn! Kẻ phàm phu ngu si nghĩ đến dung mạo đẹp đẽ xinh xắn rồi khởi lên lòng tham dục. Ðối với nghĩa kinh giáo pháp thì thấy có tỳ vết không ưa thích. Nếu không suy nghĩ chính chắn chơn thật thì tập theo tham dục chạy theo buông lung.
Phật dạy: Lành thay! Thiếu niên nói rất đúng. Tâm tánh của thói tham dục là như vậy. Hãy bỏ tư tưởng tà vạy, suy nghĩ điều chân chánh rồi tu tập theo nghiệp ấy, đừng tạo nghiệp tà nữa, lìa Ngã kiến rồi, nên quán nó đều bình đẳng.
Thiếu niên hỏi: Sao gọi là Bồ Tát tư duy đúng đắn các pháp?
Phật dạy: Này thiếu niên! Nếu tư duy phân biệt tham dục, sân giận, ngu si và các trần lao vốn đều thanh tịnh, đó là Bồ Tát cầu Phật đạo. Ví như thiếu niên là một vật hữu hình rồi dâm nộ si. Bồ Tát cũng vậy, hiểu rõ tất cả, phân biệt rõ các pháp, sinh hoạt tự tại.
Vì ba độc đó không có nguồn gốc cũng không có chỗ trụ. Giống như nhà không có chủ, trong nhà vắng tanh trống rỗng. Do lìa ngã, nhơn, thọ mạng nên không còn vọng tưởng. Người nào không chấp vào ý niệm tức là đã diệt trừ sự chấp trước rồi.
Vì bỏ sự chấp trước nên vô nguyện, tâm chí đã được hỷ lạc, thì ân ái cũng đều tiêu trừ, không có các hành và cũng không có tạo tác. Tánh dâm nộ si vốn thanh tịnh. Bồ Tát cũng vậy, do hiểu rõ tất cả pháp nên được tự tại. Nếu Bồ Tát học đúng các pháp thì phát tâm đều là đạo.
Vì sao?
Vì nếu hiểu rõ tâm mình thì hiểu rõ tâm Như. Biết rõ phân biệt tất cả pháp không có sắc không có hình thì không chỉ dạy, tự nhiên như huyễn, do trong ngoài nương tựa vào nhau, đó cũng là đạo. Vì Bồ Tát không có đạo nào khác nên phải thi hành để tự hiểu tâm.
Vì sao?
Vì nếu hiểu rõ tâm mình thì có thể hiểu biết tâm tất cả chúng sanh. Tâm mình tĩnh lặng thì tâm chúng sanh điềm nhiên. Tâm mình vốn thanh tịnh thì tâm chúng sanh cũng thanh tịnh. Tâm mình thanh khiết, tâm chúng sanh cũng thanh khiết, tâm mình ly dục thì tâm chúng sanh cũng ly dục.
Tâm mình không sân giận thì tâm chúng sanh cũng không sân giận. Tâm mình không si thì tâm chúng sanh cũng sáng suốt không si. Tâm mình không có trần cấu thì tâm chúng sanh cũng không có bụi dơ.
Nếu ai hiểu rõ việc như vậy thì đó là hiểu biết thông suốt với Nhất thiết trí. Ai tu hành đúng như vậy đó là Bồ Tát. Gần với bổn tịnh thì biết tâm niệm của tất cả chúng sanh.
Giả sử có những sự ưa thích bị khách vọng tưởng trần lao dựa vào tâm để làm ô uế thì không nên nhàm chán mà phải tu hành bằng pháp quán. Nếu có người hiểu rõ đúng đắn thì khách vọng tưởng trần lao không còn trần lao nữa.
Sau khi đức Phật nói vậy xong, Úy Gian con trưởng giả đắc được Nhu Thuận Pháp Nhẫn. Thấy con trưởng giả được khai hóa thuận theo giáo nghĩa, Thượng Kim Quang Thủ cùng năm trăm ngọc nữ đánh đàn Trời trỗi lên các âm nhạc, đến chỗ Phật lễ lạy sát chân Ngài đi nhiễu ba vòng rồi lui qua một bên.
Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi nói với Úy Gian: Ông biết cô này không?
Ông trả lời: Biết.
Văn Thù hỏi: Biết thế nào?
Khi ấy Úy Gian thưa Văn Thù Bồ Tát bằng kệ:
Sắc như đống bọt nước
Thọ như bong bóng nước
Biết tưởng như sóng nắng
Tôi hiểu biết như vậy
Hành rỗng như cây chuối
Thức giống như huyễn hóa
Danh hiệu mượn khách trần
Tôi hiểu biết như vậy
Thân không đáng tham trước
Như cỏ cây tường vách
Tâm ấy không thể thấy
Tôi hiểu biết như vậy
Nó không ngã không nhơn
Không thọ cũng không mạng
Thân do các chủng thành
Tôi hiểu biết như vậy
Không có dâm nộ ấy
Ngu si không chỗ trụ
Thanh tịnh không trần lao
Tôi hiểu biết như vậy
Kẻ ngu bị mê hoặc
Nghĩ ngược vì điên đảo
Người trí không đắm nhiễm
Tôi hiểu biết như vậy
Giống như giữa rừng cây
Thân cô gái hôi thối
Sắc ấy là như thế
Tôi hiểu biết như vậy
Vốn không có đời sau
Quá khứ và hiện tại
Sanh khởi không sở hữu
Tôi hiểu biết như vậy
Thưa Ngài hãy lắng nghe
Pháp chơn thật giải thoát
Thì tránh khỏi vết dơ
Không còn lui tới nữa
Không đầu cũng không cuối
Hiện ở trong sanh tử.
Giáo hóa cho chúng sanh.
Ai không phát tâm đạo
Như tôi tham dâm nhuế
Các trần lao bất chánh
Các pháp không nguồn gốc
Lành thay! Kinh giải thoát. Thế rồi, Thế Tôn ứng thời mà cười, trong miệng phát ra ánh sáng năm màu.
Hiền giả A Nan đứng dậy sửa pháp phục, gối phải sát đất chắp tay thưa: Bạch Thế Tôn! Vì sao Ngài cười?
Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác chưa từng cười suông, mà chắc chắn phải có lý do?
Phật dạy: Này A Nan! Ông có thấy Thượng Kim Quang Thủ không?
A Nan thưa: Thưa Thiên Trung Thiên! Con đã thấy!
Phật dạy: Này A Nan! Vào thời quá khứ xa xưa, Văn Thù Sư Lợi đã khuyến hóa cô gái này phát tâm đạo. Nay cô ta trở lại nghe pháp liền đạt được nhu thuận pháp nhẫn.
Ông có thấy con trưởng giả kia không?
A Nan thưa:Thưa đã thấy!
Phật dạy: Này A Nan! Ðời trước ta vốn khuyến hóa ông ta phát đạo tâm. Nay trở lại được nghe Phật giảng pháp, liền đạt Nhu Thuận Pháp Nhẫn.
Này A Nan! Qua chín mươi hai trăm ngàn kiếp, Thượng Kim Quang Thủ sẽ thành Phật hiệu Bảo Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Thế Giới tên Bảo Cái, kiếp tên Bảo Thành. Trong nước ấy những thức ăn uống, y phục, nhà cửa giống như trên cõi Trời Ðao Lợi thứ hai. Quốc độ cõi Phật ấy không có châu bảo nào khác cả, chỉ lấy Bồ Tát làm trân bảo. Tuổi thọ của Như Lai ấy sống vô lượng.
Sau khi thành Phật rồi thì con trưởng tên Úy Gian ấy sẽ làm Bồ Tát tên Ðức Quang Diệu Lãnh thọ giáo pháp của Thế Tôn ấy. Khi đức Quang Minh Như Lai chưa diệt độ thì thọ ký cho Bồ Tát Ðức Quang Diệu rồi mới Bát Niết Bàn.
Sau đời ta, Bồ Tát Ðức Quang Diệu ấy sẽ được thành Phật hiệu Trì Diệm Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác giống như cõi Phật trên không khác. Vừa thọ ký cho tộc tánh tử này thì Ba Ngàn Đại Thiên Thế Giới chấn động sáu cách, có ánh sáng lớn chiếu khắp thế giới, khi được thọ ký đầy đủ như vậy, thì tám ngàn người được phát tâm đạt vô thượng chánh chân.
Hiền giả A Nan bạch Phật: Cúi xin Ðại Thánh! Kinh này nên đặt tên là gì và nên phụng hành như thế nào?
Thế Tôn dạy: Kinh này đặt tên là Ðại Tịnh Pháp Môn Phẩm Văn Thù Sư Lợi Khuyến Trợ Hý Biến. Lại gọi là Thượng Kim Quang Thủ bổn chi hóa. Nên phụng trì và khai thị cho tất cả. Phật dạy như vậy xong, hiền giả A Nan, thiếu niên Nam Tử và Nữ Nhân, Văn Thù Sư Lợi, Chư Thiên, Rồng, Thần, A Tu La đều rất hoan hỷ.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Pháp Tập Yếu Tụng - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Nước Dụ
Phật Thuyết Kinh Nói Về Mười Hai Phẩm Sinh Tử
Phật Thuyết Kinh úc Ca La Việt Vấn Bồ Tát Hành - Phẩm Tám - Phẩm ở Nơi Vắng Vẻ - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Công đức Nhiễu Quanh Tháp Phật Vòng Theo Bên Phải
Phật Thuyết Kinh Nhân Quả Trong đời Quá Khứ Và Hiện Tại - Phần Bốn