Phật Thuyết Kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Thiên, Đời Tống

PHẬT THUYẾT

KINH DIỆU PHÁP THÁNH NIỆM XỨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Thiên, Đời Tống  

PHẦN MỘT  

Tôi nghe như vậy!

Một thời, Đức Thế Tôn đang ở trong đại chúng, có Trời, Người vây quanh, chiêm ngưỡng tôn nhan, mắt không tạm rời.

Khi ấy, các đại chúng đứng ở trước Đức Phật nói kệ:

Quy mạng nhất thiết trí

Bậc nhất trong ba cõi

Phô diễn âm vi diệu

Lợi ích khắp quần sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy đại chúng, bằng kệ:

Nếu có các chúng sinh

Không giết, cho không sợ

Lòng lành hay nhịn nhục

Đoan nghiêm, thọ không sánh.

Nếu đối với hữu tình

Tưởng giống như cha mẹ

Hay lìa không cùng giữ

Phước trí tuệ vô lượng.

Hoặc thân làm nghiệp lành

Tâm lìa dục vững vàng

Không nhìn nữ sắc đẹp

Giải thoát các nẻo ác.

Nên xa lìa thế gian

Chứng đắc vui giải thoát

Như vàng ở trong quặng

Thể tánh vốn thanh tịnh.

Phiền não không điều phục

Gặp tốt đẹp sinh yêu

Không phân biệt tốt xấu

Kiếp phù sinh rất khổ.

Khổ vui do tâm khởi

Việc được, mất cũng vậy

Tốt xấu có hợp tan

Nhân quả không thiên lệch.

Hàng phục các loạn căn

Thực hành tâm bình đẳng

Lợi ích cho hữu tình

Đó là hạnh Tỳ Kheo.

Sa Môn, Bà La Môn

Nên đoạn trừ phiền não

Trí tuệ càng tăng trưởng

Khiến tâm không tán loạn.

Chứng đắc lý Niết Bàn

Nên xa lìa các khổ

Siêng phát tâm chánh kiến

Phật nói việc này khó.

Giải thoát các luân hồi

Tu Di ái không động

Mùi hương chiên đàn kia

Vị cam lồ, không sánh!

Tuy đã được cúng dường

Áo tốt thật mềm mại

Không dính mắc tham ái

Tâm vui vẻ biết đủ

Như cỏ bị lửa đốt

Biết rõ không rốt ráo

Cúng dường được phước tuệ

Nước lửa không xâm hại.

Nghiệp sạch quả chân trí

Sông nước trọn không hết

Không tham các cảnh giới

Phật nói hạnh Tỳ Kheo.

Ưa cầu đủ các trí

Tương ưng luôn hiện tiền

Hiểu rõ pháp chân thật

Không đọa các luân hồi.

Nếu người cầu pháp sạch

Khiến tâm không tán loạn

Tuệ cho khắp cảnh giới

Hỏa kiếp không thể hoại,

Các cõi vốn vô minh

Luân hồi từ đây sinh

Cần trừ bỏ phiền não

Hạnh Mâu Ni chân chánh.

Ưa thực hành nhẫn nhục

Đoan nghiêm lìa oán hại

Năng Nhân do tướng tốt

Người thấy tâm vui mừng.

Rừng vắng lìa rối loạn

Tâm yêu thích mừng vui

Thường mang bát thọ thực

Đó là hạnh Tỳ Kheo.

Giải thoát rất an vui

Ba đường rất là khổ

Chân như lìa kia, đây

Suy nghĩ không thể được.

Nghiệp lợi người bình đẳng

Nhu hòa thường thẳng ngay

Chánh hạnh mãi tương ưng

Xa lìa mọi tà chấp.

Ý căn ưa dính mắc

Ý căn rất cao cả

Ý căn rất mau chóng

Ý căn hay vui vẻ,

Diễn thuyết bằng kệ này

Hay làm cũng hay nói

Tẩy sạch các phiền não

Biết rõ quả nghiệp lành.

Biết rõ việc được mất

Hướng nẻo đẹp bồ đề

Tất cả các hữu tình

Thứ nhất trong sáu căn,

Thích dừng trụ giữa rừng

Xa lìa mọi oán tặc

Biết rõ sáu căn này

Chánh hạnh, từ đây sinh.

Thường trụ nơi thiền định

Tẩy sạch các nghiệp chướng

Thí như ở hư không

Gió mây không thể nhiễm.

Khéo giữ thân, khẩu, ý

Chánh kiến mãi tương ưng

Như đèn trí tuệ sáng

Chúng ma không thể hoại.

Không hại vật là thiện

Từ bi nhiều lợi ích

Oai nghi không khuyết phạm

Mới trụ tâm Tỳ Kheo.

Mắt bị cảnh sắc buộc

Ngăn ngại không thể đổi

Phiền não trói hữu tình

Không ra khỏi ba cõi.

Trí chân tục vi diệu

Việc khéo hiếm trở lại

Chư Phật đều cùng khen

Vận dụng rất khó nghĩ,

Học rộng cầu giải thoát

Tham giận không thể phạm

Khéo giữ thân ba nghiệp

Trừ bỏ khiến không sinh.

Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo các đại chúng: Nếu có chúng sinh bị phiền não trói buộc, xoay tròn trong ba cõi, chịu các khổ não.

Hoặc làm mười điều lành, cảm được quả Cõi Trời, Người, sung sướng vui vẻ: Ví như mặt trăng tròn, không còn chướng ngại, trong sáng không gì bằng, thấy được rất vui vẻ.

Lại giống như củi khô dễ bị lửa thiêu đốt. Như vậy, ác nghiệp cần phải đoạn trừ. Phải xa lìa sinh tử luân hồi trong ba cõi, giải thoát các khổ.

Lại như loài chim bay được lìa sự trói buộc, tự tại không lo ngại. Hoặc các hữu tình không tạo các nghiệp, ra khỏi ba cõi, chứng lý Nhị không, khổ não không xâm hại, tham giận chẳng thể nhiễm, hiểu rõ luân hồi. Ví như đèn sáng, chiếu rõ mọi vật, chánh trí tương ưng, luôn không gián đoạn, lìa mọi tà chấp ưa thích vắng lặng, dưới cây hoang vắng lìa bỏ các ác, gần kề bạn lành.

Tỳ Kheo như vậy tu hạnh xuất gia, ưa thích tất cả các cảnh giới, không nên tham lam dính mắc, không thích cửa nhà, xa lìa việc buôn bán, đổi chác và lời nói giả dối, không Thích Ca múa, lìa bỏ sự thương ghét, ăn một lần giữa trưa nơi rừng, đối với Bồ Đề là trên hết.

Thường tìm đến chỗ an vui, xa lìa việc ôm giữ, dùng áo đơn sơ vui mừng vừa đủ dừng trụ nơi rừng hoang, tìm nơi vắng lặng suy nghĩ, xa lìa những loạn tưởng và tham lam giận dữ… luôn thực hành lòng lành, đem lợi lạc cho hữu tình, xa lìa ngu ám, tu tập trí tuệ lìa nghiệp phiền não, giải thoát sinh tử, tu tám Thánh đạo, trước mắt đạt được sự vắng lặng, phá tan tất cả các khổ phiền não.

Như vậy, Tỳ Kheo cần phải tu tập vững vàng các căn lành, xa lìa ham muốn lôi kéo, chuyên tâm một cảnh, ưa thích chân như tất cả trí tuệ, tăng trưởng pháp tịnh viên mãn vô lậu, biết rõ hữu lậu là giả dối không thật.

Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo: Nếu có Tỳ Kheo an trụ phạm hạnh, thanh tịnh như hòa, khéo tu chỉ quán, ưa thích thiền định, vui chơi giữa rừng, xa lìa mọi sự lôi kéo, hiểu rõ mê vọng. Cũng như chim bay, bóng theo hư không, Tỳ Kheo cũng vậy, ba áo theo thân, khéo tu bình đẳng, luôn nghĩ chánh pháp, diệt trừ phiền não, trí tuệ tương ưng, về nơi chánh đạo, cho đến bờ giác, rốt ráo Niết Bàn.

Tỳ Kheo nên biết! Quán sát như vậy sẽ an ổn vui vẻ, chớ đối với sự xoay tròn và già, bệnh chết thường là sợ hãi.

Giống như A Tu La và chúng Trời khác, vui vẻ cúng dường, được bát Tăng già lê tốt đẹp hơn cả không như đồ khác. Giữ gìn phạm hạnh, chẳng làm cho hủy phạm, trong sạch không nhơ, không bị các mùi vị và lợi dưỡng lôi kéo.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu các hữu tình lìa bỏ lòng thương xót, buông thả, ngạo khinh thiêu đốt các điều lành thì khó dứt hết các lậu.

Đức Thế Tôn bèn nói kệ:

Nếu xả Bi tinh tấn

Vô minh, mạn tương ưng

Vắng lặng không hiện có

Do lậu không trừ diệt.

Khi ấy, Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Nếu lại có người, đối với các ngọa cụ mềm mại thượng diệu, không có sự ưa thích, hiểu biết rõ vô minh là nguồn gốc của mê ám, các hoặc tùy theo đó phát sinh, vô minh ấy cùng khắc các tâm nhiễm.

Một lúc nào đó chẳng còn mê ám, thấu hiểu rõ ràng các pháp thiền định, tam muội, liền dứt sạch được các lậu.

Đức Phật lại bảo các Tỳ Kheo: Nếu các ông muốn kinh hành ở trong rừng, vắng lặng không loạn. Thì đối với các cảnh rượu chè sắc đẹp, với các pháp xấu không nên ưa thích.

Các Tỳ Kheo phải như vậy. Bởi có các chúng ma, do nghiệp ràng buộc, làm loạn khổ việc tu tập điều lành, giống như người uống độc, tự làm tự chịu, nay ông phá giới, thực hành tà mạng, bị phiền não trói buộc đọa đại địa ngục, chịu nhiều nỗi khổ.

Tỳ Kheo nên biết! Khi đi khất thực nếu thấy người nữ, tưởng đó như rắn độc, nên chuyên chú một lòng nhớ nghĩ chánh pháp, không cầu danh lợi và các cảnh đẹp, xa lìa nghiệp trói buộc, khiến tâm được bình đẳng, không có hành động chê bai. Hoặc vào xóm làng thì tưởng như vào rừng hoang.

Khi xin đồ ăn, thức uống tưởng để trị bệnh. Khi phiền não khởi lên tưởng như rừng cháy. Khi cầu diệu pháp, tưởng đến đường chánh, khi nằm trên giường, tưởng sợ hãi như nai. Nhập vào thiền định, tưởng dạo xem vườn.

Thấy A La Hán, tưởng làm ruộng phước, không thích cảnh giới và lời nói hý luận, luôn cầu giải thoát, quốc vương đại thần không vì lợi ích mà gần kề món ăn thức uống ngon ngọt nhất, cũng chớ tham tưởng là hiếm có. Thí chủ danh lợi, thường chẳng nên lừa dối. Tâm thực hành các phương tiện, không khởi sân giận.

Ngược lại, ham thích nhà cửa gần gũi kẻ quý tộc, như cá thích nước, muốn ở không rời xa lìa tri thức mê muội, quay lưng lại với chân thật, mong cầu sự giả dối trống rỗng như đèn chớp trong mộng, tưởng là giải thoát mà thật ra tôn trọng tà đạo, luôn cung kính, cho là chân thật cao tột nhất. Thì không bao giờ tỏ ngộ được.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần