Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Tám - Phẩm Tam Thập Tam Thiên - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT KINH KHỞI THẾ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM TÁM

PHẨM TAM THẬP TAM THIÊN  

TẬP BA  

Chư Tỳ Kheo, tất cả loài Rồng và Kim Sí Điểu… dùng các giống cá, ba ba, cá sấu, tôm, mực, nòng nọc, rồng con, rắn, rái… làm thức ăn thô cứng. Các sự che đậy, tắm rửa… làm thức ăn vi tế. Các A Tu La dùng vị Cam Lộ tuyệt ngon của Trời làm thức ăn thô cứng, các sự che đậy… làm thức ăn vi tế.

Trời Tứ Thiên Vương và Thiên chúng đều dùng vị Cam Lộ kia làm thức ăn thô cứng. Các sự che đậy… làm thức ăn vi tế. Trời Ba Mươi Ba cũng dùng vị Cam Lộ của Trời kia làm thức ăn thô cứng, các sự che đậy… làm thức ăn vi tế.

Giống như Trời Ba Mươi Ba, các Cõi Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại… đều dùng vị Cam Lộ của Trời ấy làm thức ăn thô cứng, các sự che đậy… làm thức ăn vi tế. Từ đây trở lên, Chư Thiên đều dùng niềm vui trong định làm thức ăn, Tam ma bạt đề làm thức ăn, không có thức ăn thô cứng và vi tế.

Chư Tỳ Kheo, những chúng sanh nào dùng sự xúc chạm làm thức ăn?

Chư Tỳ Kheo, tất cả chúng sanh thọ sanh từ trứng như là ngỗng, chim ưng, chim hồng, chim hạc, gà, vịt, khổng tước, anh vũ, cù đục, tu hú, bồ câu, yến, se sẻ, trĩ, chim khách, quạ… và nhiều loại chúng sinh khác sanh từ trứng, vì chúng được thọ thân từ trứng nên tất cả dùng xúc chạm làm thức ăn.

Những chúng sanh nào dùng tư duy làm thức ăn?

Nếu có chúng sanh dùng ý tư duy nuôi dưỡng các căn, tăng trưởng thân mạng như là cá, ba ba, rùa, rắn, tôm, mực, già la, cù đà… và nhiều loài chúng sanh khác dùng ý tư duy, nuôi lớn các căn, tăng trưởng thọ mạng, thì đó là chúng sanh dùng tư duy làm thức ăn.

Những chúng sanh nào dùng thức làm thức ăn?

Đó là những chúng sanh ở địa ngục và Cõi Trời Vô biên thức xứ… các chúng sanh ấy đều dùng sự duy trì thức làm thức ăn.

Chư Tỳ Kheo, bốn thứ thức ăn này duy trì các đại, giữ gìn sự sống cho các chúng sanh.

Ở đây có bài kệ:

Hoa, sắc và các pháp

Thọ mạng, áo, năm thứ

Chợ búa và cưới gả

Căn, quang, thực là mười.

Chư Tỳ Kheo, chúng sanh ở thế gian đều cùng có ba loại hành động ác là thân, khẩu và ý hành động ác.

Chư Tỳ Kheo, có các chúng sanh, thân làm hạnh ác, miệng nói hạnh ác và ý nghĩ hạnh ác. Do nhân duyên đó, khi thân hoại mạng chung đọa vào đường ác, sanh trong địa ngục. Họ ở trong ấy, sau cùng thức diệt. Thức của Địa Ngục lúc mới tương tục sanh thì thức kia cùng sanh liền có danh sắc. Do duyên danh sắc liền có lục nhập.

Chư Tỳ Kheo, lại có chúng sanh, thân làm hạnh ác, miệng nói hạnh ác, ý nghĩ hạnh ác. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung đọa vào đường ác, sanh trong loài súc sanh. Họ ở nơi ấy, sau cùng thức diệt. Thức của loài súc sanh, lúc mới tương tục sanh, ngay khi thức ấy cùng sanh thì liền có danh sắc. Do duyên danh sắc, liền có lục nhập.

Chư Tỳ Kheo, lại có chúng sanh, thân làm hạnh ác, miệng nói hạnh ác, ý nghĩ hạnh ác. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung đọa vào đường ác, sanh Cõi Diêm Ma. Họ ở nơi đấy, sau cùng thức diệt. Thức ở Cõi Diêm Ma, lúc mới tương tục sanh, ngay lúc thức ấy mới sanh liền cùng với danh sắc cùng sanh một lần. Do duyên danh sắc liền có lục nhập.

Chư Tỳ Kheo, đó là ba loại hạnh ác cần phải xa lìa.

Chư Tỳ Kheo, thế gian lại có ba thứ hạnh lành. Đó là hạnh lành của thân, của miệng và của ý.

Chư Tỳ Kheo, nếu có chúng sanh, thân làm hạnh lành, miệng nói hạnh lành và ý nghĩ hạnh lành thì do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung được sanh vào loài người. Họ ở nơi đấy, sau cùng thức diệt, thức của người, lúc thức ấy vừa mới chuyển sanh liền cùng danh sắc đồng thời sanh ra. Do duyên danh sắc liền có lục nhập.

Chư Tỳ Kheo, lại có chúng sanh, thân làm hạnh lành, miệng nói hạnh lành, ý nghĩ hạnh lành. Do nhân duyên ấy, khi thân hoại mạng chung được sanh lên Cõi Trời. Họ ở nơi ấy, thức diệt. Thức của Cõi Trời ấy, ngay lúc chuyển sanh, khi thức ấy sanh liền cùng với danh sắc đồng thời sanh. Do có danh sắc liền có lục nhập.

Chư Tỳ Kheo, Chư Thiên trong Cõi Trời, hoặc ngay nơi Thiên Tử, hoặc ngay nơi Thiên Nữ, hoặc ở chỗ ngồi, hoặc trong hai gối, hoặc giữa hai đùi vế, bỗng nhiên sanh ra. Khi vừa mới sanh, họ liền lớn như em bé mười hai tuổi ở nhân gian. Nếu là Thiên nam thì ngay tại chỗ ngồi của Thiên Tử theo một bên đầu gối sanh ra.

Nếu là Thiên Nữ thì trong hai đùi vế của Thiên Nữ sanh ra. Khi đã sanh ra, vị Thiên Tử ấy liền gọi là con trai, con gái của ta. Chư Tỳ Kheo, như vậy nên biết, tu thiện thì sanh Thiên, có những pháp như thế, đó là Thiên Tử hoặc Thiên Nữ…

Khi vừa sanh ra, do những nghiệp duyên của mình đã huân tập nên họ nhớ nghĩ được ba việc: Một là tự biết chết ở chỗ nào, hai là tự biết chỗ sanh ra trong hiện tại, ba là biết sự sanh ấy là do nghiệp quả ấy, là do phước báo ấy.

Họ lại nghĩ: Vì ta ở nơi ấy, thân mạng hoại rồi, sanh lại nơi này là do ta có ba nghiệp quả như thế. Ba loại nghiệp quả đã thuần thục thì được sanh lại nơi đây.

Ba loại nghiệp quả ấy là gì?

Đó là thân làm hạnh lành, miệng nói hạnh lành, ý nghĩ hạnh lành. Ba loại nghiệp này do quả báo thuần thục nên khi thân hoại mạng chung, sanh đến nơi này.

Lại nghĩ: Nguyện rằng, nếu ở nơi này sau khi chết, ta sẽ sanh vào nhân gian. Khi ta đã thọ sanh ở nhân gian, lại tu các hạnh lành về thân, miệng, ý… do thân, miệng, ý tu các hạnh lành nên sau khi thân hoại rồi, thì sanh trở lại nơi này. Nghĩ như vậy xong họ liền nghĩ đến ăn.

Khi họ nghĩ muốn ăn, thì ở ngay trước mặt liền có các đồ đựng báu tự nhiên tràn đầy vị Cam Lộ Cõi Trời nhiều màu khác nhau. Trong các Thiên Tử, vị nào có nghiệp thù thắng thì vị Cam Lộ màu rất trắng trong. Vị Thiên Tử nào quả báo bậc trung thì vị Cam Lộ màu hơi đỏ.

Vị Thiên Tử nào có phước đức bậc hạ thì vị Cam Lộ màu hơi đen. Khi ấy, các vị Thiên Tử dùng tay bốc các vị Cam lồ bỏ vào miệng. Vị Cam Lộ ấy khi đã vào miệng dần dần tự tiêu hóa. Giống như sữa hay váng sữa đem đặt trên lửa liền tự tiêu mất, không đông lại được. Cũng giống như thế, vị Cam Lộ Trời bỏ vào miệng thì tự nhiên tiêu hóa.

Ăn vị ấy rồi, nếu khi nào khát nước, thì liền ngay ở trước mặt có đồ chứa báu Cõi Trời đựng đầy rượu Trời, tùy theo phước bậc thượng, trung, hạ mà hợp với màu trắng, đỏ, đen… như trước… khi uống vào miệng, cũng tự tiêu mất như vậy. Lúc ấy, các vị Thiên Tử đó, ăn uống xong, thân liền to lớn. Thô tế, Cao thấp giống như các Thiên Tử và Thiên Nữ sanh trước.

Chư Tỳ Kheo, các Thiên Tử, Thiên Nữ ấy khi đã trưởng thành, ai nấy tùy theo ý mình đều có chỗ đi đến. Họ đi đến ao nước, lội vào trong ao, tắm rửa sạch sẽ, vui vẻ tận hưởng. Xong ra khỏi ao, lại đến cây Hương, cành cây Hương kia tự nhiên uốn cong xuống, từ trong cành cây tuôn ra các thứ hương thơm, chảy vào trong tay.

Các Thiên Tử dùng thoa vào thân, thoa vào thân rồi, lại đến cây Y phục. Khi ấy cây Y phục cũng cúi xuống, ngay ở trong cành lại tuôn ra các thứ y phục tuyệt đẹp, thả xuống tận tay, các Thiên Tử lấy mặc vào. Mặc y phục rồi, họ đến cây Anh lạc. Cây cúi xuống tới tay đeo vào khắp thân… như trước… trang nghiêm nơi thân rồi, họ lại đến cây Tràng hoa.

Cây ấy cúi xuống, tuôn ra các loại tràng hoa tuyệt diệu. Các vị Trời ấy lấy cài lên đầu rồi lại đến cây đồ dùng. Cây ấy tuôn ra các loại đồ dùng quý báu để họ tùy ý lấy dùng. Sau đó họ đi đến rừng quả, đựng đầy các loại trái cây, hoặc ăn, hoặc vắt nước uống.

Xong, họ lại đến các cây Âm nhạc, cây cũng cúi xuống, tự nhiên hiện hóa các loại nhạc khí, tùy ý mà lấy, hoặc đờn, hoặc gõ, hoặc ca, hoặc múa, âm thanh tuyệt vời, khiến người ưa nghe. Bấy giờ họ lại đi vào các khu vườn. Đã vào vườn rồi liền thấy vô lượng vô biên trăm ngàn ức số Thiên Ngọc Nữ.

Các vị Thiên Tử ấy khi chưa thấy Thiên Nữ thì có sự thấy biết về nghiệp báo đời trước: Ta từ chỗ ấy sanh đến nơi này. Thân ta nay thọ quả báo như thế, là vì nghiệp đã thuần thục. Ngay khi ấy họ hiểu rõ tất cả, nhớ việc đời trước như nhìn vào lòng bàn tay.

Do thấy Thiên Nữ, mê đắm sắc đẹp, tâm chánh niệm tỉnh thức ấy liền diệt, mất đi sự nhớ nghĩ về đời trước, vướng mắc vào ái dục hiện tại, nên miệng thốt lên: Đây đều là Thiên Ngọc Nữ ư?

Thiên Ngọc Nữ ư?

Đó gọi là bị dục ái trói buộc.

Chư Tỳ Kheo, đó gọi là ba thứ hạnh lành cần phải tu tập.

Chư Tỳ Kheo, trong mỗi tháng có sáu ngày Ô Bô Sa Tha đời Tùy gọi là Tăng thượng, nghĩa là thọ trì phép chay tịnh tăng trưởng căn lành. Trong nửa tháng đầu có mười lăm ngày, trong nửa tháng sau cũng có mười lăm ngày. Hai lần nửa tháng đều có ba ngày chay.

Ba ngày chay của nửa tháng đầu là gì?

Đó là ngày mồng tám, mười bốn và ngày rằm trong tháng. Nửa tháng sau cũng có ba ngày chay như nửa tháng trước.

Vì sao trong mỗi nửa tháng đều có ba ngày chay thọ trì trai giới?

Chư Tỳ Kheo, hai lần nửa tháng đều có tám ngày, ngay trong những ngày ấy, bốn Đại Thiên Vương tập hợp những quyến thuộc, bảo với tất cả rằng: Các ngươi đi xem khắp bốn phương ở trong thế gian, có người tu hành, hiếu thuận, phụng dưỡng mẹ cha, cung kính Sa Môn, Bà La Môn chăng?

Tôn trọng các bậc Tôn trưởng chăng?

Tu hành bố thí, thọ trì giới cấm chăng?

Giữ gìn bát quan trai giới và sáu ngày chay chăng?

Khi ấy, nghe Tứ Thiên Vương dạy như vậy rồi, các vị sứ giả kia phụng mệnh Thiên Vương, liền xuống xem khắp nẻo nhân gian, ai hành hiếu hạnh phụng dưỡng mẹ cha?

Ai cung kính Sa Môn và Bà La Môn?

Lại có con cái nhà ai cung kính phụng sự bậc Tôn trưởng.

Chăm sóc, tôn sùng, lễ phép, nhường nhịn?

Ai hành bố thí, ai thực hiện sáu ngày chay?

Ai trì tám giới cấm?

Ai giữ giới hạnh?

Lúc bấy giờ sứ giả lần lượt xem khắp thế gian, thấy trong loài người, ít ai thường xuyên hiếu thuận phụng dưỡng mẹ cha, ít ai thường xuyên vâng lời, tôn trọng Sa Môn. Ít ai thường xuyên cung kính các Bà La Môn kỳ cựu hữu đức. Đối với các bậc Trưởng Lão, ít ai cung kính. Bố thí thì chút đỉnh, ăn chay thì thưa thớt, giữ giới thì bất toàn, điều răn cấm thì khiếm khuyết.

Lúc ấy Thiên Sứ thấy đầy đủ rồi, ngay trong ngày ấy, trở về chỗ Tứ Thiên Vương tâu: Đại Vương thẩm xét, tất cả loài người trong thế gian, phần nhiều không hiếu dưỡng, phụng sự cha mẹ, phần nhiều cũng không cung kính Sa Môn, Bà La Môn, phần nhiều không kính trọng các bậc Sư tăng, tôn trưởng kỳ cựu có đức, phần nhiều cũng không có người tu hành bố thí, thọ trì lục trai, phần nhiều cũng không có người phụng hành giới cấm, giữ bát quan trai.

Bấy giờ Tứ Thiên Vương nghe các Thiên Sứ tâu rồi, tâm ý buồn rầu chẳng vui, bảo các sứ giả: Nếu quả các người ở thế gian như vậy, thì thật là điều chẳng lành.

Vì sao?

Vì tuổi thọ ở nhân gian rất là ngắn ngủi, ít thời gian ở tại cõi đời, nên phải tu các điều thiện để khi chuyển qua đời sau được an lạc.

Nhưng tại sao nay số người ấy không có nhiều người làm điều hiếu dưỡng với mẹ cha… cho đến không thể giữ sáu ngày chay, phụng hành tám giới cấm, thọ trì thân khẩu?

Điều này làm tổn giảm lớn các Thiên chúng của ta, lại làm tăng thêm dòng giống A Tu La.

Chư Tỳ Kheo, còn nếu người thế gian phần nhiều thực hành hiếu thuận, phụng dưỡng cha mẹ, tôn trọng Sa Môn, Bà La Môn, kính phụng bậc Kỳ cựu, chăm lo tu bồi lễ nghĩa, nhường nhịn, thực hành tốt việc bố thí, ưa thọ trì sáu ngày chay, siêng năng vun bồi phước nghiệp, thường giữ tám giới cấm, tu hành như vậy.

Tương tục không dứt thì lúc ấy Thiên Sứ đi tuần sát thấy rồi, tâu với Tứ Thiên Vương: Đại Vương thẩm xét! Loài người ở thế gian, phần nhiều có hiếu thuận, phụng dưỡng mẹ cha, phần nhiều cung kính Sa Môn, Bà La Môn và các bậc Tôn trưởng, ưa làm việc bố thí, siêng tu trai giới.

Lúc ấy Tứ Đại Thiên Vương nghe lời tâu này của các Thiên Sứ rồi tâm rất hoan hỷ, phấn chấn vô cùng, bảo: Rất tốt! Rất tốt! Các người ở thế gian có thể tu như vậy là điều lành rất lớn.

Vì sao?

Vì số người ở thế gian kia, mạng sống ngắn ngủi, chẳng bao lâu sẽ chuyển đến một Thế Giới khác. Nay đây, tại cõi nhân gian ấy, họ luôn hiếu dưỡng với cha mẹ, phụng sự Sa Môn và Bà La Môn, tôn kính bậc Kỳ Lão, tu hành đức lễ phép, khiêm nhường. Phần nhiều ưa bố thí, trì trai giới, như vậy sẽ tăng được vô lượng quyến thuộc cho Chư Thiên, làm tổn giảm dòng giống A Tu La.

Chư Tỳ Kheo, vì sao vào ngày mười bốn và ngày ba mươi của mỗi tháng thì có những ngày chay?

Chư Tỳ Kheo, vào ngày mười bốn và ba mươi của mỗi tháng này cũng giống như trước, Tứ Thiên Vương gọi Thái Tử, sai xuống nhân gian quán sát việc thiện ác. Việc thiện ít thì buồn rầu, việc thiện nhiều thì vui mừng. Đầy đủ như đoạn Thiên Sứ đã nói trên, chỉ khác là Thái Tử tự mình đi.

Chư Tỳ Kheo, vì sao mười lăm ngày trong mỗi nửa tháng lại có những ngày chay?

Chư Tỳ Kheo, vào những ngày ấy, Tứ Thiên Vương xuống thế gian đích thân quan sát việc thiện ác, biết nhiều hay ít rồi, liền đi đến thiện pháp đường, nơi Chư Thiên tụ tập bàn luận. Ở ngay trước pháp đường, mặt hướng về Trời Đế Thích tâu đầy đủ các việc thiện ác, nhiều, ít, trái, thuận ở thế gian. Bấy giờ Trời Đế Thích nghe nói người thế gian tu phước ít lại buồn rầu, bực tức chẳng vui.

Vì sao như thế?

Vì Thiên chúng giảm xuống, chúng A Tu La lại nhiều thêm.

Nếu nghe người nhân gian hành động đúng pháp nhiều thì tâm hoan hỷ, phấn chấn vô cùng, nói thế này: Các Thiên chúng của ta dần dần sẽ tăng thêm, chúng A Tu La dần dần sẽ giảm xuống.

Chư Tỳ Kheo, do vậy sáu ngày mà Chư Thiên xuống xem thiện ác ở nhân gian nên tu trai giới, gọi đó là ngày chay.

Chư Tỳ Kheo, như khi các ngoại đạo, hoặc Ba Lợi Bà La Xà Ca, hoặc những người khác đến chỗ các vị và hỏi: Này các Trưởng Lão, do nhân duyên gì có một hạng người bị các phi nhân khủng bố?

Lại có hạng người chẳng bị các phi nhân khủng bố?

Nếu các ngoại đạo hỏi như vậy thì các vị nên trả lời như thế này: Này các Trưởng Lão, có nhân duyên này: Ở trong thế gian có hạng người làm điều phi pháp, bên trong có tà kiến và nhận thức điên đảo. Họ chuyên làm mười pháp bất thiện, nói việc bất thiện, nghĩ việc bất thiện, tà kiến, điên đảo.

Vì gây mười điều bất thiện như vậy nên chư thần bảo hộ đời sống dần dần rời bỏ họ. Những hạng người như thế, nếu có trăm hoặc ngàn thần, chỉ lưu lại một vị bảo hộ một cách lơ là, như bầy dê, bầy trâu cả trăm ngàn con mà chỉ để một người chăn. Ở đây cũng vậy, vì thần bảo hộ ít, nên thường bị hàng phi nhân khủng bố. Còn có hạng người thực hành chánh pháp, chẳng hành tà kiến, không nhận thức điên đảo.

Vì họ làm mười điều thiện, chánh kiến, chánh ngữ, tu hành nghiệp thiện như vậy, nên từng người một đều có vô lượng, hoặc trăm, ngàn chư thần bảo hộ. Do nhân duyên ấy, những người này không bị hàng phi nhân khủng bố. Thí như nhà Vua và Đại Thần của Vua, tùy theo từng người mà có trăm, ngàn thần hộ sanh bảo vệ.

Chư Tỳ Kheo, ở nhân gian, nếu có những dòng họ thế nào thì trong hàng phi nhân cũng có tất cả dòng họ như thế.

Chư Tỳ Kheo, nhân gian có các nơi cư trú như núi, rừng, sông, hồ, quốc, ấp, thành quách, ao, đầm, thôn xóm, làng mạc, thì trong cõi phi nhân cũng có tên gọi núi rừng, thành ấp, nhà cửa như thế, kể cả những nơi chốn đứng ngồi của Vua, quan Đại Thần.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần