Phật Thuyết Kinh Kim Cang Thủ Bồ Tát Hàng Phục Nhất Thiết Bộ đa đại Giáo Vương - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Pháp Thiên, Đời Tống
PHẬT THUYẾT KINH
KIM CANG THỦ BỒ TÁT HÀNG PHỤC
NHẤT THIẾT BỘ ĐA ĐẠI GIÁO VƯƠNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Pháp Thiên, Đời Tống
PHẦN BỐN
Bấy giờ Kim Cang Thủ lại nói Pháp Ấn Tướng của Hàng Phục Chư Bộ Đa Đại Giáo Vương. Hai tay xoa nhau, hai ngón trỏ thẳng như cây kim. Ấn này hay trừ hết thẩy nghiệp chướng.
Lại đem hai tay hợp quyền, hai ngón trỏ xoa nhau. Đây là Phẫn Nộ Minh Vương Giác Ngộ Ấn. Trong khoảng sát na đều hay giác ngộ khắp chúng sanh trong ba cõi.
Lại đem hai tay hợp quyền, dựng thẳng hai ngón giữa. Đây là Ấn Tưởng Lục Tự Thân Phần lúc trước.
Lại hai tay hợp quyền, dựng thẳng hai ngón giữa. Đây là Ấn An Đầu Thượng Chân Ngôn lúc trước.
Lại dựng thẳng hai ngón trỏ như cây kim. Đây là Ấn An Đảnh Thượng Chân Ngôn lúc trước.
Lại lấy ngón cái vịn tiết ngón trỏ, dùng ấn tay phải an trên mắt phải, ấn tay trái an trên mắt trái.
Lại hai tay hợp lại làm quyền, hai ngón út giao nhau, dựng thẳng hai ngón trỏ ở trên trái tim. Lại dùng hai tay đều tác quyền, đem ngón trỏ trái an trên cánh tay trái, ngón cái phải vịn móng ngón út, duỗi các ngón còn lại an trên cánh tay phải ấn này có lẽ lộn. Đây là Kết Giới Chân Ngôn Ấn lúc trước.
Lại nói tướng Ấn của Chư Thiên.
Ngửa hai tay ngang bằng nhau, kèm co hai ngón trỏ hai ngón vô danh vào trong lòng bàn tay. Đây là Đại Tự Tại Thiên Tối Thượng Chân Ngôn Ấn.
Lại ngửa hai tay ngửa ngang bằng nhau, hai ngón trỏ xoa nhau như móc câu. Đây là Na La Diên Thiên Chân Ngôn Ấn.
Lại dùng hai tay xoa nhau làm quyền, duỗi hai ngón út. Đây là Đại Phạm Thiên Chân Ngôn Ấn.
Lại dùng tay trái nắm lại thành quyền, duỗi ngón giữa. Đây là Ca Lị Đế Ca Thiên Chân Ngôn Ấn.
Lại dùng tay trái nắm quyền duỗi ngón trỏ ngón giữa, lại co một tiết của ngón giữa. Đây là Tần Na Dạ Ca Ấn.
Lại ngửa hai tay ngang bằng nhau, ngón cái vịn ngón trỏ. Đây là Nhật Thiên Ấn.
Lại dùng tay phải, duỗi ngón trỏ và ngón vô danh, lại co lóng ngón tay chỉ tiết. Đây là La Hầu Ấn.
Lại dùng tay phải tác Kim Cang Quyền làm thế múa. Lại dùng tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ ngón giữa đem ngón cái đè ngón vô danh với ngón út. Đây là Na Trí Thấp Phạ Ra Ấn.
Lại dùng hai tay nửa tác Bình Chưởng, an ở trên đảnh. Đây là Ô Ma Nữ Thiên Ấn.
Lại đem hai tay chắp lại, hướng lên không ném bung. Đây là Cát Tường Nữ Thiên Ấn.
Lại đem hai tay chắp lại làm quyền, hai ngón út và hai ngón trỏ cùng xoa nhau. Đây là Nguyệt Nữ Thiên Ấn.
Lại hai tay chắp lại làm quyền, duỗi hai ngón trỏ, đem hai ngón trỏ vịn nhau như hình báu, an ngay trên trán. Đây là Bảo Trang Nghiêm Dạ Xoa Nữ Ấn.
Lại dùng hai tay mỗi mỗi đều làm quyền, hai ngón út cùng vịn nhau. Đây là Nguyệt Thiên Ấn.
Tụng Nguyệt Thiên Chân Ngôn là:
Úm, ra đát nẵng, thất lị, sa phạ hạ.
Oṃ ratna śrī svāhā.
Lại nói Biện Tài Nữ Thiên Ấn. Hai tay cùng giao nhau, duỗi hai ngón trỏ, an trên miệng.
Lại dùng hai tay múa xoay vòng bên phải, rồi an trên đảnh. Đây là Để Lộ Đát Ma Nữ Thiên Ấn.
Lại để hai tay bằng nhau, an trên trái tim. Đây là Lam Bà Nữ Thiên Ấn.
Bấy giờ lại nói An Hiền Thánh Vị Chân Ngôn trong Ngoại Mạn Noã La là:
Úm, thiết khất ra dã, sa phạ hạ.
Oṃ śākrāya svāhā.
Đây là Đế Thích Chân Ngôn, an ở phương Đông.
Úm, a nga nẵng duệ, sa phạ hạ.
Oṃ agnāye svāhā.
Đạy là Hoả Thiên Chân Ngôn, an ở góc Đông Nam.
Úm, dã ma, sa phạ hạ.
Oṃ yama svāhā.
Đây là Dạ Ma Thiên Chân Ngôn, an ở phương Nam.
Úm, ra xoa sa địa bà đa duệ, nhạ dã, sa phạ hạ.
Oṃ rākṣasādhipataye jaya svāhā.
Đây là Ra Xoa Chủ Chân Ngôn, an ở góc Tây Nam.
Úm, phạ rô nõa nẵng nga địa ba đa duệ, ha nẵng, sa phạ hạ.
Oṃ varuṇa nāgādhipataye hana svāhā.
Đây là Thủy Thiên Long Chủ Chân Ngôn, an ở phương tây.
Úm, phạ dã phệ dã, tả ra tả ra, sa phạ hạ.
Oṃ vāyaveya cala cala svāhā.
Đây là Phong Thiên Chân Ngôn, an ở góc Tây Bắc.
Úm, câu phệ ra dã, dược xoa địa ba đa duệ, sa phạ hạ.
Oṃ kuverāya yakṣādhipataye svāhā.
Đây là Tỳ Sa Môn Thiên Vương Chân Ngôn, an ở phương Bắc.
Úm, tán nại ra dã, sa phạ hạ.
Oṃ candrāya svāhā.
Đây là Nguyệt Thiên Chân Ngôn, an ở góc Đông Bắc.
Bấy giờ Kim Cang Thủ Bồ Tát lại nói Ấn Tướng của các Dạ Xoa Nữ Chủ. Hai tay chắp lại, ngón út như cái vòng. Đây là Tô ra Tố Na Lị Ấn.
Lại đem hai tay hợp quyền, hai ngón út giao nhau, ngón trỏ như cái vòng. Đây là Nhất Thiết Bộ Đa Nữ Chủ Ấn.
Lại đem hai tay nắm quyền, hai ngón trỏ cùng giao nhau. Đây là Bát Thủ Môn Bộ Đa Nữ Ấn.
Lại nói Mạn Noã La Hiền Thánh Vị Ấn.
Ngửa tay phải bằng phẳng, đem ngón cái vịn móng ngón út, các ngón kia đều cách lìa nhau. Đây là Đế Thích Ấn.
Ngửa tay trái bằng phẳng, hơi động đậy. Đây là Hỏa Thiên Ấn.
Tay phải nắm thành quyền, duỗi ngón trỏ. Đây là Dạ Ma Ấn.
Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ ngón giữa. Đây là La Sát Chủ Ấn.
Tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ làm như cái vòng. Đây là Thuỷ Thiên Ấn.
Tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ ngón giữa. Đây là Phong Thiên Ấn.
Tay phải nắm quyền, duỗi ngón cái. Đây là Tỳ Sa Môn Thiên Vương Ấn.
Hai tay đều nắm quyền, hai ngón trỏ cùng vịn nhau. Đây là Nguyệt Thiên Ấn.
Tay trái nắm quyền, đem ngón cái vịn móng ngón út, kèm duỗi các ngón còn lại. Đây là Tam Xoa Ấn.
Đem hai tay hợp thành quyền. Đây là Viên Mãn Ấn.
Chân Ngôn là:
Úm, tất địa, phạ nhật ra, bố ra dã bố ra dã, hồng.
Oṃ siddha vajra pūrāya pūrāya svāhā.
Lại đem hai tay nắm lại thành quyền, hai ngón út cùng giao nhau, ngón trỏ như cái vòng. Đây là Câu Triệu Ấn.
Liền tụng Câu Triệu Thành Tựu Chân Ngôn là:
Úm, phạ nhật ra rô sa, ma ha cốt rô đà, tất đà, ca lị sa dã, hồng, nhược. Tất đà, ca lị sa nõa, mãn đát ra, cốt rô đà, tất địa, ma ha ra nhạ, tất địa, tam ma dã, sa nga ra, tất đà đô đát sa nỉ phạ đa thi già ra, tất địa, mãn nổ đa ra.
Oṃ vajra roṣaṇa mahā krodha siddha akarṣāya hūṃ jaḥ siddha akarṣāya mantra krodha siddhi mahā rāja siddhi samaya sāgara siddha tuṣṭa me pāda śīghraṃ siddhiṃ anuttaraṃ.
Lúc tụng Chân Ngôn này thời ném chày Kim Cang.
Lại nói Bộ Đa Hiến Tòa Ấn Tướng.
Ngửa tay trái ngang bằng, dựng thẳng ngón cái. Lại quyền phải nắm ngón cái trái, dựng thẳng ngón cái phải. Đây là Vô Năng Thắng Bộ Đa Chủ ngay bên dưới hai bàn chân của Kim Cang Thủ Bồ Tát, nâng đỡ bàn chân mà ngồi. Đây gọi là Hiến Toà.
Tụng Chân Ngôn là:
Úm, nhạ dã nhạ dã, ma hạ cốt rô đà địa ba để, cốt rô đà ra nhạ, y nan bộ đa sa nam nại lị xá dã, ra xoa dã, sa phạ hạ.
Oṃ jaya jaya mahā krodha adhipataye krodha rāja imāṃ bhūta asanaṃ darśaya rakṣāya svāhā.
Lại nói Hiền Thánh Tòa Ấn. Chắp hai tay lại rồi mở lìa mười ngón.
Đây là Liên Hoa Toà Ấn, tụng Chân Ngôn là:
Úm, bát nạp mô nạp bà vam nễ thỉ nại, tát lị phạ nễ phạ đán, sa phạ hạ.
Oṃ padma udbhava diśenāṃ sarva devatāṃ svāhā.
Tụng Chân Ngôn nầy xong.
Dùng Liên Hoa Ấn lúc trước, lại lay động hai ngón cái. Đây là Phụng Tống Hiền Thánh Ấn.
Tụng Chân Ngôn này là:
Úm, Sa Ra Sa Ra, Nga Tha Nga Tha, Tát Lị Phạ Nễ Phạ Đán, Thất Lị Phạ Nhật Ra Đà Ra, Tát Ma Nghê Dã, Bà Dã Đế, Sa Phạ Hạ.
Oṃ sara sara, gaccha gaccha sarva devatāṃ śrī vajra dhāra sama ajñāpayati svāhā.
Tụng Chân Ngôn này xong, liền tụng kệ này là:
Tất cả thành tựu Đại Phẫn Nộ.
Khiến được thành tựu Tối Thượng Lạc niềm vui tối thượng.
Nay con đã được Pháp thành tựu.
Nguyện xin Thánh Chúng về Chân Tịnh.
Khi ấy Kim Cang Thủ Bồ Tát Đại Phẫn Nộ Chủ nói lời như vậy: Nếu lại có người đối với Mạn Noã La này được thấy tùy vui thì người đó không lâu sẽ thành tựu, làm Chủ của Tam Giới.
Nếu lại có người, đối với Kim Cang Thủ Đại Giáo Vương này, thọ trì cúng dường. Thì không lâu người đó cùng với Kim Cang Thủ Bồ Tát có thần thông oai lực thảy đều bằng nhau. Giả sử chẳng được ngang bằng, liền được làm Chuyển Luân Vương thống lãnh bốn thiên hạ.
Nếu lại có người trì tụng tên của Kim Cang Thủ Bồ Tát, sẽ hay khiến cho tất cả Bộ đa đi đến, làm nô bộc phụng sự cung cấp.
Nếu tụng Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn thì tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, La Sát, các Quỷ Thần ác. Đều khiến phải chết. Tất cả Trời, Người sợ hãi bỏ chạy.
Bấy giờ, Kim Cang Thủ Bồ Tát lại nói Pháp thành tựu. Trước tiên ở chỗ thanh tịnh làm pháp sự cho rành. Sau đó tụng Chân Ngôn một lạc xoa để ủng hộ tự thân. Lại ngày mồng một mỗi tháng tụng Chân Ngôn một ngàn biến, cho đến ngày rằm tùy sức cúng dường.
Kết Phẫn Nộ Ấn xong, liền từ ban đêm tụng cho đến sáng. Thời đại địa chấn động, Ấn hiện hào quang chiếu sáng rực rỡ, trong khỏang giây lát được oai lực ngang bằng với Kim Cang Thủ Bồ Tát. Tướng như người trời không già không chết.
Lại nữa, Kim Cang Thủ Bồ Tát nói làm Pháp thành tựu Thiên Nữ.
Trước tiên, làm hình tượng Thiên Nữ. Người trì tụng dùng bàn chân trái đạp lên tượng Thiên Nữ, liền tụng Chân Ngôn một A dữu đa thời Thiên Nữ kia liền đi đến, hiện thân ban cho người trì tụng các lọai thuốc Thánh, kho báu trong đất, các thứ trân bảo. Lại cùng làm vợ con của người trì tụng.
Nếu Thiên Nữ kia không làm thành tựu, tức lấy máu Heo bôi lên tượng Thiên Nữ, lại dùng bàn chân trái đạp lên, tụng Phẫn Nộ Chân Ngôn này là:
Úm, hạ nẵng, phạ nhật ra, ma ra dã, a mẫu kiếm, hồng phát tra.
Oṃ hana vajra mārāya amukhaṃ hūṃ phaṭ.
Tụng Chân Ngôn này tám ngàn biến, tức thời đầu của Thiên Nữ bị phá vỡ, khô héo mà chết. Chân Ngôn này cũng hay giết tất cả Bộ Đa với các oán kết.
Lại nữa, Pháp thành tựu Cát Tường Thiên Nữ.
Như trước làm tượng Thiên Nữ, người trì tụng dùng bàn chân trái đạp lên, cũng tụng Chân Ngôn một A dữu đa thời Thiên Nữ kia mau đi đến, liền dâng hiến toà hoa, rồi bảo rằng: Lành thay! Khéo đến làm vợ của ta. Thiên Nữ liền tùy ý không dám trái lệnh.
Lại nữa, người trì tụng dùng bàn chân trái đạp lên tượng Bồi Ra Phạ Thiên Nữ, tụng Chân Ngôn một A Dữu da thời Thiên Nữ kia liền đi đến. Tất cả việc mong cầu không có gì chẳng thành tựu.
Như trước làm pháp trì tụng sai khiến bảy Ma Để Lị Thiên Nữ thời họ cũng mau đi đến. Mọi mong cầu đều thành tựu.
Như vậy gọi là pháp thành tựu Hàng Phục Bộ Đa.
Lại nữa, pháp thành tựu điều phục loài đại ác khó điều phục của Kim Cang Thủ Bồ Tát. Người trì tụng đi đến bên trong cung điện, miếu thờ Đại Tự Tại Thiên, dùng bàn chân đạp lên thân Tự Tại Thiên, tụng Chân Ngôn lúc trước tám ngàn biến. Trong vòng bảy ngày, vị Trời ấy liền đi đến. Nếu chẳng đi đến liền khiến bị chết.
Như vậy Na La Diên cũng dùng bàn chân đạp lên, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến. Cho đến nội trong bảy ngày liền mau chóng đến. Hàng phục, làm theo như kẻ tôi tớ.
Hàng phục Phạm Vương cũng dùng bàn chân đạp lên thân Phạm Vương, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến thời vị ấy liền mau chóng đến, thừa sự và cung cấp như tôi tớ.
Hàng phục Đế Thích cũng dùng bàn chân đạp lên thân Đế Thích, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến sẽ mau đi đến phụng sự. Nếu vị ấy chẳng đến thì đầu mặt bị phá nát làm trăm phần và các quyến thuộc cũng đều bị chết.
Hàng phục Ca Lị Đế Kế Dã Thiên cũng dùng bàn chân đạp lên, tụng Chân Ngôn tám trăm biến, cho đến bảy ngày sẽ cùng các quyến thuộc mau đi đến cung cấp cũng như tôi tớ.
Lại nữa, nếu người trì tụng ấy muốn giết Bộ Đa, cũng tác Pháp như trước, gọi tên của họ. Lại khiến cho sống lại, cũng xưng tên của họ liền được thành tựu.
Lại nữa, như trước làm pháp, người trì tụng dùng bàn chân đạp lên thân Tần Na Dạ Ca, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến thời Tần Na Dạ Ca ấy cùng các quyến thuộc mau đi đến, cung cấp làm theo như tôi tớ. Nếu không đến, liền bị chết.
Lại nữa, người trì tụng cũng dùng bàn chân đạp lên thân Nhật Thiên, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến… cho đến bảy ngày, hay khiến cho người trì tụng làm gì cũng được tự tại.
Lại nữa, người trì tụng cũng dùng bàn chân đạp lên thân Nguyệt Thiên, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến… cho đến bảy ngày sau thời vị ấy mau chóng đến. Một ngày để lại một lượng vàng.
Lại nữa, người trì tụng dùng bàn chân đạp lên thân Bồi Ra Phạ Thiên, tụng Chân Ngôn tám ngàn biến, sau đó làm cúng dường rộng lớn. Liền dâng thịt người làm thức ăn, lấy mỡ người làm đèn, đốt thịt người làm hương.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Chư Phật Yếu Tập Kinh Pháp Cốt Yếu Của Chư Phật - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Khởi Thế - Phẩm Tám - Phẩm Tam Thập Tam Thiên - Tập Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nê Hoàn - Phẩm Tám - Phẩm Bốn Pháp - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ - Phẩm Sáu - Phẩm Quán Thiên Dạ Ma Thiên - Tập Bảy Mươi Ba
Phật Thuyết Kinh Tứ Thập Nhị Chương - Chương Ba Mươi - Lánh Xa Lửa Dục
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Mười Một
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm - Phần Hai