Phật Thuyết Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương - Phẩm Hai - Phẩm Thọ Lượng Của Như Lai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh, Đời Đường
PHẬT THUYẾT KINH
KIM QUANG MINH TỐI THẮNG VƯƠNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Nghĩa Tịnh, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM THỌ LƯỢNG CỦA NHƯ LAI
Ở thành Vương Xá có đại Bồ Tát tên là Diệu Tràng đã từng phụng sự, cung kính cúng dường, trồng các cội lành từ nơi vô lượng câu chi do tha trăm ngàn Đức Phật.
Bồ Tát an trú một mình nơi vắng và suy nghĩ rằng: Vì sao thọ mạng của Đức Thích Ca ngắn ngủi như thế, chỉ tám mươi năm?
Ngài đã nói rằng: Có hai nguyên nhân mà được trường thọ là không sát sanh và thường bố thí thức ăn thức uống, mà Đức Thích Ca từ trong vô lượng trăm ngàn vạn ức vô số đại kiếp ở đời quá khứ không hại sanh mạng, thực hành mười thiện, ban phát thức ăn thức uống cho các chúng sanh đói khát. Thậm chí ban cho chúng sanh máu thịt, xương tủy của mình, mong họ no đủ.
Khi Bồ Tát nghĩ về Phật như thế, nhờ oai lực Phật, ngôi thất bỗng nhiên rộng rãi thoáng mát, sạch sẽ trang nghiêm. Lưu li Đế thanh, các báu vật khác, tơ lụa nhiều màu trang hoàng rực rỡ, giống như Tịnh Độ của các Đức Phật. Lại có hương thơm tuyệt diệu hơn cả hương thơm Cõi Trời lan tỏa khắp thất.
Bốn phía đều có Tòa Sư Tử quý do bốn vật báu kết hợp tạo thành, lại được phủ bằng vải báu thanh tịnh, có hoa sen đẹp, trân bảo trang trí, tương xứng với thân Đức Phật Như Lai tự nhiên xuất hiện. Trên hoa sen có bốn Đức Phật là Bất Động Như Lai ngự ở phương Đông, Bảo Tướng Như Lai ngự tại phương Nam, Vô Lượng Thọ Phật ngự ở phương Tây, Thiên Cổ Âm Phật ngự ở phương Bắc.
Bốn Đức Như Lai đều ngồi kết già trên tòa của mình, phóng luồng ánh sáng rực rỡ chiếu soi khắp thành Xá Vệ, đến cả tam thiên đại thiên Thế Giới và hằng hà sa Cõi Phật mười phương. Lại có hoa Trời tươi đẹp tuôn khắp, nhạc Trời reo vang.
Bấy giờ chúng sanh ở cõi Diêm Phù và cả tam thiên đại thiên Thế Giới, nhờ oai lực Phật, nên đều nhận được niềm vui tuyệt diệu, không còn ai phải chịu sự thiếu thốn.
Trong đó những ai thiếu khuyết chi phần thì lại đầy đủ, người mù được sáng, người điếc tai thông, người câm nói được, người ngu trí tỏ, người điên tâm an, người thiếu áo quần thì có áo quần, người kém hèn lại được kính trọng, thân thể hôi dơ trở lại sạch sẽ. Những việc lợi ích chưa từng có được ở thế gian này lần lượt xuất hiện đầy đủ không thiếu.
Bồ Tát Diệu Tràng thấy bốn Đức Phật và việc hiếm có, vô cùng vui vẻ chiêm ngưỡng tôn dung tuyệt mĩ của Phật.
Bồ Tát lại nghĩ Thích Ca Như Lai vô lượng công đức, không phải nghi ngờ, chỉ vì thọ mạng của Ngài quá ngắn nên lòng nghi rằng: Tại sao công đức của Phật vô lượng, mà thọ mạng Ngài lại quá ngắn ngủi, chỉ tám mươi năm?
Bốn Đức Như Lai bảo Diệu Tràng rằng: Hiền Giả Diệu Tràng! Ông chẳng nên nghĩ và cho thọ mạng Như Lai ngắn ngủi.
Vì sao như thế?
Vì chẳng một ai trong Cõi Trời Người, Phạm Thiên Ma Vương, Sa Môn, Phạm chí, phi nhân vân vân mà tính biết được thọ mạng Như Lai, chỉ trừ bậc Vô Thượng Chánh Biến Tri.
Bốn Đức Như Lai sắp nói thọ lượng của Phật Thích Ca. Do oai lực Phật, nên các vị Trời Cõi Dục, Cõi Sắc, các vị Long Vương, Thần Càn Thát Bà, Thần A Tu La, Loài Yết Lộ Trà, Loài Khẩn Na La, Ma Hô Lạc Già, cùng với vô lượng trăm ngàn vạn ức do tha Bồ Tát đều nhóm họp tại ngôi thất tịnh diệu của Ngài Diệu Tràng.
Bấy giờ bốn Đức Như Lai ở trước đại chúng dùng kệ trình bày thọ lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Có thể tính biết được
Số giọt nước biển lớn
Nhưng sẽ không thể nào
Biết thọ lượng Thích Ca.
Dù biết số hạt cát
Từ diệu cao phân ra
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích Ca.
Có thể tính biết được
Số hạt bụi đại địa
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích Ca.
Giả sử lường biết được
Giới hạn của hư không
Nhưng không thể tính biết
Thọ lượng của Thích Ca.
Nếu người sống ức kiếp
Dốc sức hằng tính toán
Cũng không thể biết được
Thọ lượng của Thế Tôn.
Do không hại sinh mạng
Và bố thí ẩm thực
Cho nên Đức Thích Ca
Được thọ mạng dài lâu.
Do đó khó tính biết
Thọ mạng bậc Đại Giác
Thọ lượng của Như Lai
Như kiếp số vô biên.
Diệu Tràng, ông nên biết!
Chớ khởi tâm nghi hoặc
Như Lai thọ vô lượng
Không ai tính biết được.
Bồ Tát Diệu Tràng nghe bốn Đức Phật nói về thọ lượng của Đức Thích Ca, liền bạch Phật rằng: Như thế tại sao Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi?
Bốn Đức Phật dạy: Này thiện nam tử! Thích Ca Mâu Ni xuất hiện thế gian vào thời năm trược, thọ mạng con người chỉ được trăm năm, thiên tư kém cỏi, căn lành nhẹ mỏng, không có lòng tin, khởi kiến chấp ngã, kiến chấp về nhân, kiến chấp chúng sanh, kiến chấp thọ giả.
Nuôi dưỡng tà kiến, ngã ngã sở kiến, đoạn kiến thường kiến…vì muốn giúp cho những chúng sanh này và các ngoại đạo phát sanh chánh kiến, mau chóng thành tựu vô thượng bồ đề, cho nên Thích Ca Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi.
Này thiện nam tử! Nhưng Đức Như Lai muốn các chúng sanh thấy Phật Niết Bàn, sanh khởi ý niệm khó được gặp Phật xuất hiện thế gian, ý niệm buồn khổ…, phải chóng thọ trì, đọc tụng thông thạo, giảng nói cho người những Kinh Giáo mà Như Lai đã dạy, không sinh hủy báng.
Vì thế Như Lai thị hiện thọ mạng ngắn ngủi như thế. Còn nếu chúng sanh thấy Đức Như Lai không vào Niết Bàn, thì chẳng cung kính, chẳng có ý niệm khó gặp được Phật xuất hiện thế gian, không chịu thọ trì, đọc tụng thông thạo, giảng nói cho người nghe những Kinh Điển Như Lai đã dạy. Vì mãi gặp Phật thì không khởi tâm cung kính tôn trọng.
Này thiện nam tử! Như có người thấy cha mẹ giàu sang, của cải vô số, thì sẽ không có ý nghĩ khó được số tài sản này, mà xem là thường.
Các chúng sanh kia cũng lại như vậy, thấy Đức Như Lai không vào Niết Bàn, thì sẽ không sanh ý tưởng khó gặp, vì thường thấy vậy.
Như có người thấy cha mẹ nghèo khổ, không có tài sản, người ấy đến nhà vương gia quan lớn, thấy những kho tàng chứa đầy trân bảo, liền sanh ý tưởng cho là khó được. Bấy giờ người ấy tìm mọi phương cách, siêng năng cần mẫn, tìm cầu cho được của cải như thế, hầu thoát đói nghèo, cuộc sống an vui.
Các chúng sanh kia cũng lại như vậy, nếu thấy Như Lai vào Niết Bàn rồi, sẽ sanh ý tưởng cho là khó gặp, cho đến buồn khổ mà suy nghĩ rằng: Trải vô lượng kiếp, Như Lai mới hiện ở thế gian này, như hoa Ưu Đàm đúng lúc mới hiện.
Các chúng sanh kia, đã sanh ý niệm khó gặp Như Lai, nên khi gặp được, tâm liền kính tin, nghe thuyết chánh pháp liền cho thật ngữ, thọ trì tất cả mà không hủy báng. Vì nhân duyên ấy, cho nên Thế Tôn không thể trụ lâu, mà chóng Niết Bàn. Các Đức Như Lai dùng các phương tiện khéo léo như thế để giúp chúng sanh thành tựu Bồ Đề.
Bốn Phật nói xong, bỗng nhiên biến mất. Bấy giờ Diệu Tràng cùng với vô lượng trăm ngàn Bồ Tát, vô lượng vạn ức do tha trăm ngàn chúng sanh tụ tập tại non Linh Thứu, trụ xứ của Đức Thích Ca Như Lai, lễ chân Ngài rồi đứng về một phía. Bồ Tát Diệu Tràng trình bày cho Phật biết những việc trên. Lúc ấy bốn Đức Như Lai cũng vừa đến ngọn Linh Thứu, mỗi vị tùy theo phương vị của mình mà ngồi vào tòa.
Mỗi vị đều bảo Bồ Tát thị giả: Các ông hãy đến trước Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển lời của ta thăm hỏi: Ngài hẳn không bệnh, không có nhọc mệt, đi đứng nhẹ nhàng, thật an lạc chứ?
Lại nói: quý thay, quý thay! Thích Ca Như Lai! Nay Ngài giảng nói Kinh Kim Quang Minh, pháp yếu sâu xa của các Như Lai, để làm lợi ích cho khắp chúng sanh, dứt trừ đói khát, khiến được an lạc. Chúng tôi cũng sẽ tùy hỉ việc này.
Các vị Bồ Tát thị giả đến trước Thích Ca Mâu Ni, đảnh lễ chân Ngài, đứng về một phía.
Tất cả đồng thưa: Đấng Thiên Nhân Sư! Thầy của chúng con thăm hỏi Như Lai rất nhiều, hỏi Ngài không bệnh, hẳn không nhọc mệt, đi đứng nhẹ nhàng, được an lạc chứ?
Các Ngài lại nói: quý thay, quý thay! Thích Ca Như Lai! Nay Ngài giảng nói Kinh Kim Quang Minh, pháp yếu sâu xa của các Như Lai, để làm lợi ích cho khắp chúng sanh, dứt trừ đói khát, khiến họ an lạc.
Thích Ca Mâu Ni Ứng Chánh Đẳng Giác bảo các Bồ Tát: Hay thay, hay thay! Bốn Đức Như Lai vì sự lợi ích và niềm an lạc của các chúng sanh mà lại thỉnh ta tuyên dương chánh pháp.
Thế là Thích Ca Như Lai nói kệ:
Ta thường tại Linh Sơn
Giảng thuyết Kinh báu này
Vì thành tựu chúng sanh
Nên thị hiện Niết Bàn.
Phàm phu khởi tà kiến
Không tin lời ta nói
Vì giúp họ thành tựu
Nên thị hiện Niết Bàn.
Bấy giờ trong hội có Bà La Môn họ Kiều Trần Như, tên là Pháp Sư Thọ Ký cùng với vô lượng trăm ngàn Phạm chí, sau khi cúng dường Đức Phật Thế Tôn, nghe Ngài nói rằng sẽ vào Niết Bàn, thì đều khóc than.
Tất cả đồng lễ chân Phật rồi thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu thật Như Lai có lòng từ bi, làm điều lợi ích cho mọi chúng sanh, giúp họ an lạc giống như cha mẹ, làm nơi nương tựa cho cả thế gian, như trăng tròn sáng, dùng đại trí huệ chiếu soi cùng khắp, như mặt trời mọc, bình đẳng thương yêu tất cả chúng sanh như La Hầu La, thì cúi xin Ngài cho con ước nguyện.
Đức Phật Thế Tôn im lặng chờ đợi.
Do oai lực Phật, nên trong chúng hội có một đồng tử thuộc giòng Lê xa, tên là Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến nói với Bà La Môn Kiều Trần Như: Đại Bà La Môn! Ông muốn xin Phật một ước nguyện gì, tôi đây sẽ cho!
Bà La Môn đáp: Kính thưa nhân giả! Tôi muốn cúng dường Thế Tôn vô thượng và cũng muốn thỉnh một viên Xá Lợi chỉ bằng hạt cải của Đức Như Lai.
Vì sao như thế?
Vì tôi từng nghe nếu ai có được Xá Lợi Như Lai, dù bằng hạt cải, cung kính cúng dường thì sẽ sanh lên Cõi Trời Đao Lợi làm Đế Thích Thiên.
Đồng tử liền nói: Nếu muốn sanh lên cõi Ba Mươi Ba, hưởng phước báo tốt thì nên lắng nghe Kinh Kim Quang Minh. Kinh này bậc nhất trong các Bộ Kinh, rất khó thấu hiểu, rất khó thâm nhập, Thanh Văn Độc giác không thể biết được.
Kinh này thật có năng lực sanh ra vô lượng vô biên quả báo phước đức, cho đến thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Tôi sẽ lược nói để Ngài hiểu rõ.
Bà La Môn thưa: quý thay, quý thay! Kính thưa nhân giả! Kinh Kim Quang Minh vô cùng sâu xa, cao siêu khó hiểu, rất khó thể nhập, Thanh Văn Độc giác còn không thể biết, huống gì chúng tôi là hạng phàm phu, trí huệ kém cỏi. Cho nên hôm nay chúng tôi nguyện được một viên Xá Lợi chỉ bằng hạt cải, thỉnh về quê hương, đặt vào hộp quý, chí thành cúng dường.
Sau khi mạng chung, được làm Đế Thích, luôn được an vui. Ước nguyện chúng tôi chỉ có như thế, vì sao hôm nay, Ngài không thể xin Như Lai ban cho.
Đồng tử Nhất Thiết Chúng Sanh Hỉ Kiến nói kệ:
Trên Sông Hằng chảy xiết
Có thể sanh hoa sen,
Chim vàng biến thành trắng
Chim đỏ trở thành đen
Giả sử cây chiêm bặc
Sanh ra quả đa la
Trên cành khát thọ ra
Lá am la xanh tốt
Những việc này thật hiếm
Cũng có thể xảy ra
Nhưng Xá Lợi Thế Tôn
Chẳng thể nào có được.
Giả sử dùng lông rùa
Dệt thành chiếc áo đẹp
Để lúc lạnh ấm thân
Thì mới được Xá Lợi.
Giả sử chân loài muỗi
Biến thành tòa lâu đài
Vững chắc không lay động
Mới cầu được Xá Lợi.
Ví như loài đỉa kia
Trong miệng sanh răng trắng
Dài lớn, bén như gươm
Mới cầu được Xá Lợi.
Giả sử dùng sừng thỏ
Làm thành chiếc thang dài
Bắc lên tận cung Trời
Mới cầu được Xá Lợi.
Ví chuột leo thang này
Đánh đuổi A tu la
Hay ngăn che vầng nguyệt
Mới cầu được Xá Lợi.
Nếu ruồi uống rượu say
Bay khắp các xóm thôn
Xây dựng nhiều nhà lớn
Mới cầu được Xá Lợi.
Nếu sắc môi của lừa
Đỏ như quả tần bà
Diễn ca múa thật hay
Mới cầu được Xá Lợi.
Nếu quạ và hưu lưu
Cùng ở chung một tổ
Cả hai đều thuận thảo
Mới cầu được Xá Lợi.
Giả sử lá ba la
Có thể thành tàn lọng
Ngăn che cơn mưa lớn
Mới cầu được Xá Lợi.
Nếu một chiếc thuyền lớn
Chở đầy các báu vật
Nhẹ nhàng lướt trên đất
Mới cầu được Xá Lợi.
Giả sử chim hồng tước
Dùng mỏ ngậm Hương Sơn
Bay đi khắp mọi nơi
Mới cầu được Xá Lợi.
Nghe bài kệ này, Pháp Sư Thọ Ký cũng dùng kệ đáp:
Hay thay, Đại nhân giả!
Bậc tài giỏi trong chúng
Có phương tiện tuyệt vời
Được Thế Tôn thọ ký.
Như Lai oai đức lớn
Hay cứu giúp thế gian
Nhân giả lắng lòng nghe
Tôi xin thứ tự nói!
Cảnh giới Phật khó lường
Thế gian chẳng thể sánh
Tánh pháp thân thường trụ
Tu không làm sai khác
Thể Chư Phật đều đồng
Pháp nói ra cũng thế.
Chư Phật không do tạo
Lại cũng vốn không sanh
Thế Tôn thân kim cương
Tạm hiện hóa thân này.
Cho nên Xá Lợi Phật
Không phải như hạt cải
Thân Phật chẳng máu thịt
Làm sao có Xá Lợi.
Phương tiện lưu cốt thân
Vì lợi ích hữu tình
Pháp thân là Chánh Giác
Pháp giới tức Như Lai
Đây là chân thân Phật
Cũng gọi là như thị pháp.
Bấy giờ ba vạn hai ngàn vị Trời trong hội nghe nói thọ mạng Như Lai vô cùng dài lâu, đều rất vui mừng, tất cả biết được điều chưa từng có, liền cùng phát tâm vô thượng bồ đề và cùng nói kệ:
Phật chẳng vào Niết Bàn
Chánh pháp cũng không diệt
Vì lợi ích chúng sanh
Mà thị hiện có diệt độ.
Thế Tôn chẳng nghĩ bàn
Diệu thân không dị tướng
Vì lợi ích chúng sanh
Hiện các tướng trang nghiêm.
Bồ Tát Diệu Tràng đối trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bốn Đức Như Lai, hai vị Đại Sĩ và các vị Trời nghe nói thọ lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni vô lượng, liền từ tòa ngồi đứng dậy chắp tay cung kính bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu thật như thế, các Đức Như Lai không vào Niết Bàn, không có Xá Lợi, vì sao trong kinh nói có Niết Bàn và Xá Lợi Phật, để rồi hôm nay tất cả Trời người cung kính cúng dường?
Chư Phật quá khứ lưu lại cốt thân, phân khắp thế gian, Trời người cúng dường được phước vô lượng. Hôm nay nói không, khiến cho con và chúng hội nghi ngờ.
Cúi xin Thế Tôn thương xót giảng nói cho chúng con hiểu.
Đức Phật dạy rằng: Các ông nên biết, nói vào Niết Bàn và có Xá Lợi, là căn cứ theo ý nghĩa bí mật.
Các ông lắng nghe, ta nói nghĩa này! Các Đại Bồ Tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại Niết Bàn viên mãn rốt ráo: Chư Phật Như Lai hoàn toàn đoạn sạch các phiền não chướng, và sở tri chướng, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai hiểu rõ tất cả hữu tình vô tánh và pháp vô tánh, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai có đủ năng lực chuyển được thân y và cả pháp y, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai tự tại chấm dứt nhân duyên giáo hóa các loài hữu tình, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai đã chứng pháp thân chân thật bình đẳng, lìa tướng sai biệt, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai thấu rõ thể tánh sanh tử Niết Bàn không hai không khác, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai thấu suốt nguồn gốc của tất cả pháp, chứng trí thanh tịnh, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai tu tập rốt ráo tất cả các pháp vô sanh vô diệt, nên gọi Niết Bàn.
Như Lai đã đạt chánh trí đối với chân như pháp giới, thật tế bình đẳng, nên gọi Niết Bàn.
Chư Phật Như Lai thấu suốt thể tánh Niết Bàn và pháp vốn không sai biệt, nên gọi Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Các Đại Bồ Tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại Niết Bàn viên mãn rốt ráo: Tất cả phiền não từ lạc dục sanh, lạc dục là gốc, các Đức Như Lai đã đoạn lạc dục, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai đã đoạn lạc dục, không chấp một pháp. Vì không chấp thủ, cho nên không đến không đi. Vì không chấp thủ, nên gọi Niết Bàn.
Vì không đến đi và không chấp thủ, cho nên pháp thân chẳng sanh chẳng diệt, vì không sanh diệt, nên gọi Niết Bàn.
Lí không sanh diệt, ngôn từ không thể diễn đạt rốt ráo, vì bặt ngôn từ, nên gọi Niết Bàn.
Vì không nhân ngã, chỉ có pháp sanh diệt được chuyển y, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai thấu suốt phiền não, các tùy phiền não đều là khách trần, pháp tánh là chủ, không đến không đi, nên gọi Niết Bàn.
Chân như là thật, còn tất cả pháp đều là hư vọng, thể của thật tánh tức là chân như, tánh của chân như tức là Như Lai, nên gọi Niết Bàn.
Tánh của thật tế thì không hí luận, chỉ có Như Lai mới chứng thật tế, vĩnh viễn đoạn trừ những pháp hí luận, nên gọi Niết Bàn.
Vô sanh là thật, sanh là hư vọng, kẻ ngu si chìm sâu trong sanh tử, Như Lai thể hội vô sanh chân thật này, không còn hư vọng, nên gọi Niết Bàn.
Pháp hư vọng đều từ nhân duyên sanh, pháp chân thật không từ nhân duyên khởi, pháp thân Như Lai là pháp chân thật, nên gọi Niết Bàn.
Các Đại Bồ Tát phải nên biết rõ, có mười nguyên nhân giải thích thật nghĩa Như Lai nói có Đại Niết Bàn viên mãn rốt ráo: Các Đức Như Lai biết rõ bố thí quả của bố thí vô ngã ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc bố thí và quả bố thí, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ về giới và các quả báo của việc trì giới vô ngã ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc trì giới và quả của trì giới, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ về nhẫn và quả của nhẫn vô ngã ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về việc hành nhẫn và quả của nhẫn, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ tinh tiến và quả tinh tiến vô ngã ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm về hạnh tinh tiến và quả của nó, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ thiền định và quả của định vô ngã ngã sở, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm cả về thiền định và quả của định, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ trí huệ và quả của trí huệ, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm cả về trí huệ và quả trí huệ, nên gọi là Niết Bàn.
Các Đức Như Lai biết rõ tất cả hữu tình vô tình và tất cả pháp đều là vô tánh, vĩnh viễn đoạn trừ phân biệt sai lầm, nên gọi Niết Bàn.
Nếu có ưa thích thì có truy cầu, do tâm truy cầu phải chịu khổ não, các Đức Như Lai trừ tâm ưa thích, diệt ý mong cầu, nên gọi Niết Bàn.
Các pháp hữu vi đều có số lượng, các pháp vô vi vượt ngoài số lượng, Như Lai xa lìa các pháp hữu vi, chứng pháp vô vi không thuộc số lượng, nên gọi Niết Bàn.
Các Đức Như Lai thấu suốt thể tánh của loài hữu tình và tất cả pháp đều là không tịch, lìa tánh không thì chẳng có tất cả, tánh không tức là pháp thân chân thật, nên gọi Niết Bàn.
Này thiện nam tử! Đâu chỉ Như Lai không vào Niết Bàn mới là hiếm có, mà còn những mười trường hợp hiếm khác, đó là công hạnh của các Như Lai: Sanh tử loạn động, Niết Bàn vắng lặng. Do sanh tử và Niết Bàn bình đẳng, nên các Như Lai không ở lưu chuyển, không trụ Niết Bàn, cũng không khởi tâm nhàm chán hữu tình.
Như Lai không nghĩ tất cả chúng sanh là hạng ngu si, kiến chấp sai lầm, bị các phiền não trói buộc bức ép, ta phải khai ngộ giúp họ giải thoát. Bởi sức căn lành từ bi đời trước, Như Lai thuận theo căn tánh ý thích, khả năng hiểu biết của các chúng sanh, không tâm phân biệt, tự nhiên hóa độ, thị giáo lợi hỉ mãi đến vị lai, không bao giờ dứt.
Như Lai không nghĩ, nay ta giảng thuyết mười hai thể loại, làm lợi ích lớn cho mọi chúng sanh, nhưng do oai lực căn lành đại từ đại bi đời trước, Như Lai giảng nói cho họ nghe biết, mãi đến vị lai, không bao giờ dứt.
Như Lai không nghĩ, nay ta nên vào xóm làng thành ấp, vào cung Vua quan, nhà Bà La Môn, cung sát đế lợi, nhà của phệ xá và thủ đà la để hành khất thực, nhưng do năng lực thói quen của thân miệng ý nhiều đời, nên tự nhiên đến. Cũng vì lợi ích tất cả chúng sanh mà ta khất thực.
Thân Như Lai không bao giờ đói khát, cũng không có các việc đại tiểu tiện, yếu gầy nhọc mệt. Tuy hành khất thực, mà không thọ thực cũng không phân biệt. Nhưng vì tùy thuận lợi ích hữu tình, nên Phật thị hiện có tướng thọ thực.
Như Lai không nghĩ, chúng sanh có ba bậc thượng trung hạ, ta tùy căn tánh mà thuyết pháp yếu. Bởi Phật Thế Tôn không tâm phân biệt, tùy thuận căn khí, giỏi ứng cơ duyên để thuyết mà thôi.
Như Lai không nghĩ các hữu tình này không cung kính ta, thường mắng chửi ta, ta không thể cùng với họ luận bàn. Các hữu tình kia tâm cung kính ta, luôn ca ngợi ta, ta nên cùng họ vui vẻ đàm luận. Bởi tâm từ bi của các Như Lai bình đẳng không hai.
Tâm các Như Lai không còn yêu ghét kiêu mạn, tham lam bỏn xẻn, nhưng các Như Lai ưa thích vắng lặng, ca ngợi thiểu dục, xa lánh nơi ồn náo.
Như Lai thấu suốt tất cả các pháp, không một pháp nào mà không hiểu biết, không một pháp nào mà không thông đạt. Tất cả cảnh trí, thảy đều hiện tiền mà không khởi tâm suy nghĩ phân biệt. Nhưng thấy hữu tình tạo tác các nghiệp, Như Lai tùy thuận ý thích của họ mà khéo dẫn dụ, giúp họ thoát khổ.
Khi thấy một số hữu tình giàu có, Như Lai không khởi tâm ý vui mừng, thấy họ suy tổn, Như Lai cũng không khởi ý lo buồn. Nhưng nếu Như Lai thấy các hữu tình tu tập chánh hạnh, với tâm đại bi vô ngại tự nhiên, Ngài đến cứu giúp. Nếu thấy hữu tình tu tập tà hạnh, thì cũng với lòng đại bi vô ngại tự nhiên Ngài đến cứu giúp kẻ ấy.
Này thiện nam tử! Ông nên biết rằng, Như Lai Chánh Giác giảng thuyết vô biên chánh hạnh như vậy, đó chính là tướng Niết Bàn chân thật. Nếu lúc nhìn thấy Như Lai Niết Bàn, thì biết đó là Như Lai lập bày phương tiện tạm thời, cũng như lưu lại Xá Lợi là để tất cả hữu tình cung kính cúng dường. Đó đều là do sức thiện căn từ của các Như Lai.
Nếu có người nào cúng dường Xá Lợi, thì vị lai sẽ xa lìa tám nạn, gặp được Chư Phật và thiện tri thức, không mất thiện tâm, được vô lượng phước, mau chóng thoát khổ, không còn bị dây sanh tử trói buộc. Những hạnh tu tập kì diệu như thế, mong các ông nên siêng năng tu tập, không được buông lung.
Bồ Tát Diệu Tràng nghe chính Đức Phật nói về ý nghĩa không vào Niết Bàn và dạy các hạnh sâu mầu như thế, chắp tay cung kính bạch Đức Phật rằng: Nay con mới biết Như Lai Đại Sư không vào Niết Bàn, việc lưu Xá Lợi làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, con thật vui mừng, như nhận được điều chưa bao giờ có.
Khi Phật Thuyết Phẩm Như Lai thọ lượng, vô lượng vô biên chúng sanh phát tâm vô thượng bồ đề. Bốn Đức Như Lai bỗng nhiên biến mất. Bồ Tát Diệu Tràng rời tòa đảnh lễ nơi chân Đức Phật, rồi liền trở về trụ xứ của mình.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba