Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Bốn Mươi Sáu
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Khương Tăng Hội, Đời Ngô
PHẬT THUYẾT
KINH LỤC TẬP ĐỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Khương Tăng Hội, Đời Ngô
PHẦN BỐN MƯƠI SÁU
Thuở xưa, Bồ Tát lúc làm Phạm Chí, tên là San Đề Hòa, sống tại núi đầm, ngồi thiền bên gốc cây, dùng trái rừng, nước suối làm đồ ăn thức uống.
Tâm cấu nhiễm được gột sạch, ở chỗ vắng lặng, sáu căn rộng tỏ, biết được hết mọi thứ. Hương thơm trí tuệ tỏa lừng tám hướng và trên dưới. Mười phương các Đức Phật, Duyên Giác, Ứng Nghi, cùng Thánh Chúng không ai là không khen ngợi.
Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương, rồng biển, thần đất... Sớm chiều cung kính chắp tay cúi đầu, vâng theo đúng cách, ủng hộ nước ấy, gió mưa thuận thời, ngũ cốc được mùa, độc hại tiêu trừ, tai ương diệt hết, Vua tôi giàu thịnh.
Vua nước này tên là Ca Lê vào núi săn bắn, đuổi theo hươu nai, tìm dấu chân chúng.
Khi đi qua trước chỗ Bồ Tát, Nhà Vua hỏi Đạo Sĩ: Dấu thú qua đây, chúng về hướng nào?
Bồ Tát im lặng suy nghĩ: Chúng sinh luôn bị rối loạn chỉ vì thân mạng, ham sống sợ chết, lòng ta nào có khác. Giả như ta chỉ cho Nhà Vua thì là bạo ngược, giết hại bất nhân, tội đồng với Vua. Còn ta nói không thấy thì là nói dối gạt. Lòng cảm thấy xấu hổ, nên cúi đầu không nói.
Nhà Vua liền nổi giận, bảo: Người ăn mày đáng chết! Ta là bậc chí tôn trong một nước mà hỏi ngươi không trả lời còn giả vờ cúi đầu ư?
Nước kia có lệ cho khảy móng tay là không nói.
Bồ Tát buồn bã, khảy móng tay nói không biết. Bèn nói rõ với Vua là mình không thấy.
Vua bảo: Dấu chân thú qua đây mà nói rằng không thấy, thì với thế lực lớn của Nhà Vua không giết ông được ư?
Bồ Tát nói: Tôi xin nghe theo lời Vua.
Nhà Vua hỏi: Ông là ai vậy?
Đáp: Tôi là người nhẫn nhục. Vua nổi giận rút kiếm chém cánh tay phải.
Bồ Tát nghĩ: Chí ta chuộng đạo pháp, không tranh với đời, mà ông Vua này còn dùng dao hại ta, huống gì là đối với dân chúng. Ta nguyện khi thành Phật sẽ trước độ ông ấy, để cho chúng sinh khỏi bắt chước theo những hành vi độc ác.
Nhà Vua lại hỏi: Ông là ai?
Đáp: Tôi là người nhẫn nhục. Vua lại chặt cánh tay trái của Bồ Tát. Rồi cứ một lần hỏi là một lần chặt một bộ phận nơi thân thể. Vua chặt chân, cắt mũi, cắt tai..., máu chảy như suối, đau đớn vô lượng. Trời đất vì việc này mà chấn động, mặt trời liền tối sầm lại.
Bốn Đại Thiên Vương đều kịp thời đến, giận dữ đồng thanh nói: Tên Vua này tàn ác hết mực, thật không ai bằng!
Rồi họ nói với Đạo Sĩ.
Không phải bận lòng, chúng tôi sẽ giết bỏ tên Vua này, cả vợ con, cùng tiêu diệt luôn cả nước để nêu rõ cái ác của hắn.
Đạo Sĩ đáp: Mấy ông nói gì thế?
Cái tai ương này là do đời trước không vâng theo lời dạy của Đức Phật, đã gia hại ông ấy. Do đó làm ác thì họa theo như bóng theo hình. Xưa gieo trồng ít mà nay gặt hái nhiều.
Ta nếu thuận theo ý của các vị thì họa như Trời đất, phải nhiều kiếp chịu tội lỗi, há có thể hết được sao?
Chúng dân thấy có biến vội vàng chạy đến, nhận lỗi, đồng thanh nói: Đạo Sĩ ở đây, ân lớn giúp đỡ khắp đất nước, tai ương qua hết, dịch bệnh tiêu trừ, mà ông Vua này quá ư ngu si không biết phải trái, không rõ nẻo tới lui, mà giết hại Đức Thánh! Cúi xin Thánh Nhân đừng đem chúng con, tâu lên Thượng đế!
Bồ Tát đáp: Vua đem điều ác vô cùng làm khốn khổ thân ta, nhưng lòng ta vẫn thương xót như mẹ hiền thương con. Còn chúng dân đây thì đâu có lỗi gì mà ta oán họ! Nếu còn nghi ngờ thì các ngươi cầm cánh tay của ta đã bị chặt đem lại đây.
Dân chúng cầm lấy, thì dòng sữa vọt ra.
Bồ Tát nói: Vì ta có nỗi xót thương của người mẹ hiền nên nay bằng chứng ấy đã hiện ngay đây.
Dân chúng thấy được bằng chứng rộng lớn, không ai là không vâng theo lời dạy và vui mừng lui về.
Bồ Tát có người em, cũng đã thấy được nguồn đạo, đang ở tại một núi khác, dùng thiên nhãn nhìn thấu suốt, thấy Trời, Thần, Quỷ, Rồng hội nhau bàn bạc về cái ác của vị Vua kia, không ai là không phẫn nộ.
Sợ người anh mình có chỗ tổn hại đến tâm đức nên dùng thần lực đi đến chỗ người anh, hỏi: Những vết thương ấy có đau đớn lắm không?
Bồ Tát đáp: Không sao! Nếu em muốn rõ về bằng chứng của ta thì hãy lấy tay, chân, tai, mũi rời ra đó sắp vào chỗ cũ. Nếu nó liền lại thì niềm tin của ta đã hiện rõ.
Người em nối các thi thể của anh, tức thì chúng đã liền lại.
Người anh nói: Niềm tin về lòng từ bi rộng khắp của ta đến nay đã hiện rõ.
Thần Trời, Thần đất không ai là không vui mừng, cúi đầu khen ngợi, rồi khuyến khích dắt dẫn nhau lập chí tu hạnh cao, thọ giới mà lui về.
Từ đó về sau mặt trời, mặt trăng, không còn ánh sáng, năm sao cũng hết thấy dạng, yêu quái dẫy đầy, thời tiết khô hạn, ngũ cốc khan hiếm, dân chúng khốn khổ đều đem lòng oán thán vị Vua.
Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo: Ông San đề hòa khi ấy là thân ta, người em là Đức Di Lặc, Nhà Vua nay Là La Hán Câu Lân.
Bồ Tát thực hành pháp nhẫn độ vô cực đã nhẫn nhục như vậy.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Mười Một - Phẩm Sa Môn - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Nhân Duyên Của Vua đảnh Sinh - Phần Sáu
Phật Thuyết Kinh đại Minh độ Kinh đạo Hành Bát Nhã Ba La Mật - Phẩm Mười Hai - Phẩm Thí Dụ
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Dã Hồ - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Năm Mươi Ba - Phẩm Khéo Học - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Lục Tập độ - Phần Tám Mươi