Phật Thuyết Kinh Nại Nữ Kỳ Vực Nhân Duyên - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH

NẠI NỮ KỲ VỰC NHÂN DUYÊN 

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

PHẦN HAI  

Bấy giờ, trong nước lại có con trai của một Cư Sĩ tinh thông võ thuật. Nó làm con ngựa gỗ cao hơn bảy thước. Hàng ngày luyện tập, mới đầu leo lên trên ngựa gỗ tập rất đắc ý, luyện tập rất lâu bỗng nhiên nhảy qua mất thăng bằng té xuống đất chết.

Kỳ Vực nghe chuyện đó đến nơi lấy cây Dược Vương chiếu vào trong bụng, thấy gan lộn ngược ra sau nên bị bế khí không thông mà chết. 

Kỳ Vực dùng dao vàng mổ bụng, đưa tay dò xét sắp xếp cho gan quay về vị trí cũ, dùng ba loại thuốc mỡ thần cao. Một loại bổ ngay chỗ mà Kỳ Vực dùng tay sửa. Một loại giúp thông khí, hơi thở điều hòa.

Một loại trị vết thương bị mổ, xong rồi Kỳ Vực dặn dò người cha: Nên cẩn thận đừng làm ồn ào, ba ngày nữa bệnh sẽ lành. Người cha vâng lời chỉ dạy, an tĩnh chăm sóc nuôi dưỡng, đến ngày thứ ba cậu con trai hắt xì tỉnh dậy, trạng thái giống như người ngủ tỉnh giấc liền ngồi dậy.

Chốc lát Kỳ Vực cũng vừa đến, cậu con trai vui mừng chạy ra ngoài cổng nghinh đón, đảnh lễ sát đất, chắp tay quỳ gối thưa: Nguyện xin thầy cho con theo làm người hầu, suốt đời phụng dưỡng hầu hạ để đáp đền công ơn cứu mạng.

Kỳ Vực nói: Ta là thầy thuốc trị bệnh khắp nơi. Bệnh nhân nhiều gia đình xin theo ta làm người hầu, nhưng ta dùng người hầu để làm gì.

Mẹ ta nuôi ta khổ nhọc công ơn của mẫu thân chưa đền đáp được, nếu muốn đền đáp cho ta thì biếu cho ta năm trăm lượng vàng để ta báo ơn mẫu thân.

Thế rồi, Kỳ Vực trở về nước La Duyệt Kỳ đem số vàng dâng lên cho mẹ là Nại Nữ. Đến đây Kỳ Vực trị bệnh được bốn người, danh tiếng vang khắp thiên hạ, không ai mà không biết.

Lại ở phương Nam có một nước rất lớn, cách nước La Duyệt Kỳ tám ngàn dặm.

Vua Bình Sa và các nước nhỏ đều rất thân thuộc với nước này.

Vua nước này đau bệnh nhiều năm nay mà không thuyên giảm.

Ông ta thường đau khổ và giận dữ hay lăm le giết người.

Người nào đưa mắt nhìn là giết, người nào cuối đầu không ngước lên cũng giết, sai người nào mà đi chậm cũng giết, đi nhanh cũng giết. Hầu cận tả hữu không biết liệu tính thế nào.

Lương y bào chế thuốc ông ta nghi kỵ có độc cũng giết, trước sau giết sạch. Cận thần, cung nữ, những người thầy thuốc không thể tính hết. Căn bệnh ngày càng trầm trọng. Độc nóng nung đốt trong tâm, phiền muộn rầu rĩ, hơi thở hổn hển, toàn thân như bị thiêu đốt.

Ông ta nghe tiếng Kỳ Vực liền xuống chiếu chỉ gởi đến nhờ Bình Sa Vương gọi Kỳ Vực. Kỳ Vực nghe ông Vua này giết nhiều thầy thuốc nên rất lo sợ. Bình Sa Vương thương lo cho Kỳ Vực tuổi còn nhỏ e rằng sẽ bị giết, nên không muốn cho đi, nhưng lại sợ ông ta đem quân chinh phạt. Cha con day dứt đêm ngày đau buồn không biết tính thế nào.

Bình Sa Vương bèn đưa Kỳ Vực đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát đất, bạch với Đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Ông Vua kia tánh tình hung ác giết nhiều thầy thuốc, vậy Kỳ Vực đến đó được không?

Phật bảo Kỳ Vực: Đời trước ta và con ước thệ cùng nhau cứu giúp thiên hạ. Ta trị nội bệnh con trị ngoại bệnh. Nay Ta thành Phật như bổn nguyện, ý ta đã đạt trước.

Ông Vua đó bệnh quá nặng mà ở xa mời con làm sao không đến được. Mau liệu tính phương tiện khéo léo đến cứu giúp, bệnh tình thuyên giảm thì ông ta không giết con.

Kỳ Vực nương thần lực của Phật đến chỗ ông Vua đó. Kỳ Vực chẩn đoán mạch lý, lấy cây Dược Vương chiếu vào, thấy bên trong ngũ tạng và hàng trăm kinh mạch của Nhà Vua. Khí huyết khắp thân thể chảy rần rần đều là chất độc mãng xà.

Kỳ Vực tâu Nhà Vua: Tâu Hoàng Thượng! Bệnh của Hoàng Thượng có thể trị được, trị chắc phải hết. Tuy nhiên, cho phép hạ thần diện kiến Thái Hậu để nghị bàn bào chế thuốc, nếu không gặp Thái Hậu thì thuốc không bao giờ thành được.

Nhà Vua nghe lời lẽ của Kỳ Vực không hiểu cớ gì. Ý muốn tức giận nhưng sợ ảnh hưởng đến bệnh, lại nghe Kỳ Vực là danh y được đón tiếp từ xa nghĩ chắc cũng có ích cho lòng mong mỏi.

Vả lại là người nhỏ tuổi biết Kỳ Vực cũng không thông gian, nên nhẫn nhịn lắng nghe. Nhà Vua liền lệnh quan thái giám đưa Kỳ Vực đến gặp Thái Hậu.

Kỳ Vực thưa Thái Hậu: Bẩm Thái Hậu! Bệnh của Nhà Vua có thể trị được nhưng phải cùng Thái Hậu bào chế thuốc. Vì đây là phương thuốc tối mật không thể tiết lộ cho ai dù là người hầu cận tả hữu.

Thái Hậu liền đuổi quan thái giám ra ngoài, nhân tiện Kỳ Vực mới bạch Thái Hậu: Bẩm Thái Hậu! Hạ thần xem bệnh Nhà Vua thấy khí huyết trong thân toàn là chất độc mãng xà, hình như chẳng phải loài người.

Xin Thái Hậu xác định Nhà Vua là con ai?

Thái Hậu thành thật kể cho hạ thần thì hạ thần mới có thể trị cho Nhà Vua. Còn nếu không nói cho hạ thần biết thì sợ rằng bệnh của Nhà Vua khó trị lành.

Thái Hậu kể: Trước kia vào một buổi trưa ta đang ngủ ở tại điện Kim Trụ, bỗng nhiên có một vật đến đè trên người ta. Lúc ấy, ta hốt hoảng nửa tỉnh nửa mơ, trạng thái như bị bóng đè trong mộng, rồi thỏa ý thông tình.

Bất chợt thức giấc thấy một con mãng xà rất to dài hơn ba trượng, từ trên người ta bò đi. Giờ mới biết mang thai Nhà Vua là con của mãng xà. Ta quá xấu hổ về điều đó, không bao giờ nói ra.

Nay Đồng Tử đã biết việc này sao thần diệu vậy?

Nếu bệnh này có thể trị được thì ta xin phó thác mạng sống Nhà Vua cho Đồng Tử.

Bây giờ trị cho Nhà Vua bằng thuốc gì?

Kỳ Vực đáp: Chỉ có đề hồ thôi!

Ôi! Đồng Tử cẩn thận chớ có chế đề hồ. Nhà Vua ghét ngửi mùi đề hồ, ghét nghe nói tên đề hồ. Ai chế đề hồ là tiếng trước tiếng sau giết người đó, con số lên đến hàng trăm hàng ngàn người. Nay Đồng Tử chế đề hồ chắc chắn bị giết. Còn nếu đem đề hồ cho Nhà Vua uống hoàn toàn càng không được. Xin Đồng Tử liệu kế chế thuốc khác.

Kỳ Vực thưa: Đề hồ trị độc, bị bệnh độc mà căm ghét đề hồ thì bệnh Nhà Vua tuy ít nhưng rồi sanh thêm bệnh khác, chỉ có thuốc đó mới trị hết bệnh. Chất độc của mãng xà rất nặng lại lan tràn khắp thân. Nếu không phải đề hồ thì không bao giờ diệt được nó.

Bây giờ sắc nấu thành nước không còn hơi hay mùi vị. Ý Nhà Vua không biết nhất định tự uống, khi thuốc ngấm vào bệnh sẽ lành.

Thôi Thái Hậu đừng lo lắng nữa!

Kỳ Vực ra ngoài tâu lại Nhà Vua: Tâu Hoàng Thượng! Hạ thần đã diện kiến Thái Hậu đưa ra phương thuốc, nghị bàn bào chế mười lăm ngày sẽ thành. Nay hạ thần có năm điều nguyện, nếu Hoàng Thượng nghe lời hạ thần thì bệnh mau khỏi, còn không nghe hạ thần, chắc bệnh khó lành.

Nhà Vua hỏi: Năm điều nguyện ấy là chuyện gì?

Kỳ Vực tâu: Nguyện thứ nhất là xin trong kho báu Hoàng Thượng một cái áo giáp mới chưa từng mặc, cho hạ thần mặc.

Nguyện thứ hai là cho hạ thần tự nhiên ra vào trong cung không được ngăn cấm.

Nguyện thứ ba là hàng ngày hạ thần vào gặp Thái Hậu và Hoàng Hậu, không được ngăn cấm.

Nguyện thứ tư là khi Hoàng Thượng uống thuốc phải uống một hơi cho hết, không được nghỉ nữa chừng.

Nguyện thứ năm là xin Hoàng Thượng ban cho con bạch tượng đi tám ngàn dặm để hạ thần cưỡi nó.

Nhà Vua nghe xong vô cùng phẫn nộ hét: Tiểu tử…! Sao dám cả gan cầu năm điều nguyện đó, mau giải thích cho rõ nếu không giải thích ta đánh chết.

Sao ngươi dám đòi áo mới của ta?

Vì muốn giết ta hay tiện bề mặc áo của ta để giả danh ta chăng?

Kỳ Vực tâu: Tâu Hoàng Thượng! Khi chế thuốc phải thanh tịnh trai giới, mà hạ thần đến đây đã lâu quần áo dơ bẩn, nên muốn xin Hoàng Thượng áo để mặc nấu thuốc.

Nhà Vua hiểu rồi lại hỏi: Như vậy thì tốt. Sao ngươi muốn tự ý ra vào cung môn không bị ngăn cấm.

Có phải nhân cơ hội đó đem binh tấn công giết ta chăng?

Kỳ Vực thưa: Tâu Hoàng Thượng! Những ông thầy thuốc trước sau, Hoàng Thượng đều cơ hiềm không tin tưởng và muốn tàn sát họ, không dùng thuốc của họ.

Quần Thần lớn nhỏ đều nói rằng: Hoàng Thượng cũng sẽ giết hạ thần, mà bệnh của Hoàng Thượng đã nặng sợ người ngoài sinh tâm làm loạn.

Nếu để hạ thần ra vào không bị ngăn cấm thì người ngoài lớn nhỏ đều biết Hoàng Thượng tin tưởng hạ thần.

Một khi Nhà Vua dùng thuốc của hạ thần thì bệnh sẽ lành. Thế là họ không dám sinh tâm nghịch loạn.

Nhà Vua nói: Tốt lắm!

Vậy còn hàng ngày sao ngươi muốn một mình vào gặp mẹ và vợ ta, muốn dâm loạn chăng?

Kỳ Vực thưa: Tâu Hoàng Thượng! Từ trước đến nay, Hoàng Thượng đã giết quá nhiều người. Quần Thần lớn nhỏ đều ôm ấp lòng lo sợ. Họ cầu nguyện cho Hoàng Thượng gặp điều bất hạnh, cho nên không thể tin bất cứ một ai. Nay cùng họ chế thuốc, nhân lúc hạ thần lơ là sơ ý, họ sẽ bỏ thuốc độc vào, hạ thần không biết thì chẳng phải chuyện nhỏ.

Nên hạ thần suy nghĩ nên tin tưởng vào người nào có ân tình, không hai lòng thì chỉ có Thái Hậu và Hoàng Hậu. Vì vậy, hạ thần cần gặp Thái Hậu và Hoàng Hậu để cộng sự nấu chế thuốc. Mười lăm ngày là hoàn thành nhưng hạ thần muốn hàng ngày vào để thăm bệnh và nấu tể vậy thôi.

Nhà Vua nói: Vậy thì tốt! Tại sao ngươi muốn ta uống phải uống cho hết, không được nghỉ nữa chừng.

Có phải bỏ thuốc độc sợ ta biết chăng?

Kỳ Vực thưa: Tâu Hoàng Thượng! Vì thuốc có nhiều loại, hơi và mùi vị phải hòa hợp lẫn nhau, nếu uống nữa chừng nghỉ thì mùi vị không liên kết với nhau.

Nhà Vua nói: Hay lắm! Thế tại sao ngươi muốn cưỡi voi của ta. Con voi đó là báu vật Vương Quốc ta, một ngày nó đi tám ngàn dặm, cho nên ta mới chinh phục được các nước là nhờ nó.

Ngươi xin cưỡi nó vì muốn chiếm đoạt, rồi quay về quê hương cùng cha ngươi chinh phạt nước ta chăng?

Kỳ Vực thưa: Tâu Hoàng Thượng! Ở trong núi biên giới phía nam có loại thuốc thần diệu, đến đó mất bốn ngàn dặm. Hoàng Thượng uống thuốc là loại dược thảo ấy.

Tuy việc khó khăn nhưng phải chế cho được, hạ thần muốn mượn voi đến đó hái thuốc, sáng đi chiều về thì thuốc không mất mùi vị. Nhà Vua nghe mọi chuyện, ý đã hiểu rõ. Thế là Kỳ Vực luyện nấu đề hồ trong mười lăm ngày xong. Nó trong vắt như nước, tất cả được mười lăm thăng, đưa cho Thái Hậu và Hoàng Hậu bưng ra ngoài.

Kỳ Vực đến thưa Nhà Vua: Tâu Hoàng Thượng! Có thể chuẩn bị bạch tượng dẫn đến trước điện. Nhà Vua cho phép. Ông ta thấy thuốc trong như nước không mùi vị không biết là đề hồ, lại có Thái Hậu và Hoàng Hậu thân cận cùng chế thuốc nên tin tưởng chắc không phải thuốc độc.

Nhà Vua như lời dặn, uống một lần hết sạch. Kỳ Vực lên voi ra đi, trở về nước La Duyệt Kỳ. Kỳ Vực đi được ba ngàn dặm vì tuổi nhỏ thể lực yếu đuối nên không chịu nổi, bỗng nhiên đau đầu, hoa mắt choáng váng phải dừng lại nằm nghỉ.

Đến giữa trưa Nhà Vua nhảy mũi hắt xì văng ra đề hồ, liền nổi giận quát tháo: Thằng nhóc con, dám cả gan cho ta uống đề hồ, hèn chi thằng quái mượn bạch tượng của ta, chắc nó phản nghịch rồi. Nhà Vua có một cận thần tên là Ô, đầy đủ thần thông đi nhanh có khả năng rượt đuổi bạch tượng.

Nhà Vua gọi Ô lại bảo: Ngươi cấp tốc đuổi theo, bắt sống nó đem về trước mặt ta, dùng chùy đánh cho chết.

Ngươi tánh thường không liêm chính, tham ăn nên gọi là Ô.

Những bọn thầy thuốc nhiều mẹo vặt dùng thuốc độc.

Nếu thằng nhóc cho ngươi ăn thì cẩn thận đừng ăn.

Ô vâng lệnh ra đi, đi như bay vào trong núi gặp Kỳ Vực bảo: Vì sao ngươi làm đề hồ cho Vua uống mà nói là thuốc?

Hoàng Thượng sai ta đuổi theo bắt ngươi quay lại.

Ngươi mau theo ta trở về, tự thú tạ tội ngõ hầu hy vọng sống.

Nếu ngươi muốn đào tẩu thì bắt buộc ta giết ngươi, đừng hòng chạy thoát được.

Kỳ Vực suy nghĩ: Ta dùng mưu kế dùng bạch tượng cũng không thoát được.

Rồi nói với Ô: Từ sáng đến giờ tôi chưa ăn gì đường nào cũng chết, thôi ông nghỉ ngơi đợi tôi chốc lát.

Tôi đi vào trong núi kiếm trái cây ăn, uống miếng nước cho no bụng chết cũng chịu.

Ô thấy Kỳ Vực còn nhỏ sợ chết khủng hoảng, lời lẽ tội nghiệp thương lòng đồng ý và nói: Đi kiếm thức ăn mau đi! Không bao lâu Kỳ Vực trở lại tay cầm trái lê ăn hết một nửa, lấy thuốc độc bỏ vào móng tay, cho vào phần còn lại rồi đặt xuống đất.

Lại lấy nước đã uống hết một nữa, lấy móng tay có độc búng vào ly nước, để xuống đất và than rằng: Nước và lê đều là thuốc trời trong mát lại thơm ngon. Người nào ăn, uống được nó thân thể bình an, trăm bệnh tiêu trừ, khí lực gấp bội.

Rất tiếc kinh đô không có thứ này. Trăm họ đang cần mà nó lại ở trong núi sâu người ta không biết được, đôi khi vào núi tìm kiếm thì gặp trái cây khác.

Ô tánh tham ăn không thể nhẫn nhịn về chuyện ăn uống, lại nghe Kỳ Vực khen là thần dược, cũng thấy Kỳ Vực ăn uống rồi.

Ô nghĩ chắc không có độc lấy phần còn lại lê và nước, uống hết sạch. Liền bị kiết lỵ, tiêu chảy như nước, rồi ngã sấp xuống nằm dài, cố gắng đứng dậy lại hoa mắt ngã xuống không cử động được nữa.

Kỳ Vực nói: Tôi chế thuốc cho Hoàng Thượng uống tất nhiên bệnh sẽ hết. Giờ thì thuốc chưa thấm là bao nên chất độc vẫn còn. Nay ở lại chắc tôi bị giết, ông đâu có biết, nên rượt bắt tôi để giải về cho Nhà Vua.

Vì vậy tôi làm cho ông bệnh, bệnh của ông không hại gì, thận trọng chớ động đậy ba ngày bệnh sẽ lành. Nếu ông đứng dậy rượt theo tôi tất nhiên chết không sai. Kỳ Vực cưỡi bạch tượng ra đi.

Kỳ Vực đi qua một ngôi làng nghèo nói với trưởng làng: Sứ giả Vương Quốc này bỗng nhiên lâm bệnh, các ông tranh thủ cấp tốc đưa ông ta về nhà, nuôi dưỡng chăm sóc cho chu đáo, chuẩn bị giường chiếu cho đàng hoàng, cung cấp cháo thịt cẩn thận chớ để chết.

Nếu để ông ta chết thì Nhà Vua tiêu diệt ngôi làng các ông. Nói rồi Kỳ Vực lên đường quay về Bổn Quốc. Trưởng làng vâng lệnh đón Ô về nuôi dưỡng, ba ngày độc ngưng tuyệt hẳn.

Ô trở về diện kiến Nhà Vua, khấu đầu tự tường thuật lại: Hạ thần thật ngu si trái lời Hoàng Thượng dạy, tin lời Kỳ Vực ăn uống phần dư nước và trái cây, vì ăn trong đó nên sanh bệnh kiết lỵ ba ngày. Từ đó đến nay mới hết, hạ thần tự biết tội chết. Trong thời gian ba ngày đến khi Ô trở về, Nhà Vua cũng hết bệnh.

Nhà Vua suy nghĩ: Ta rất ăn năn đã sai Ô đi.

Thấy Ô về vừa buồn vừa vui nói: Lúc Trẫm giận nhờ ngươi đuổi theo giết cho được thằng nhỏ không được trái lời.

Hiện nay mạng Trẫm được cứu sống là nhờ ơn của nó. Trẫm đã gây ra tội lỗi không nhỏ.

Nhà Vua hối hận đã giết nhiều người chết oan trước đây, rồi đem hậu táng, đưa tiền của giúp gia đình họ.

Nghĩ đến ơn cứu mạng của Kỳ Vực, Nhà Vua sai sứ giả cung nghinh Kỳ Vực.

Kỳ Vực tuy biết Nhà Vua hết bệnh nhưng vẫn còn nỗi lo sợ không muốn đến.

Bấy giờ, Kỳ Vực đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Ông Vua đó sai sứ giả đến nghinh đón con, có nên đến không?

Đức Phật bảo Kỳ Vực: Túc mạng đời trước con đã thệ nguyện phải hoàn thành công đức sao dừng nửa chừng, nên đến đó đi! Con trị ngoại bệnh cho Nhà Vua, Ta cũng trị nội bệnh cho ông ta.

Kỳ Vực bèn theo sứ giả lên đường, đến nơi Nhà Vua thấy Kỳ Vực hết sức vui mừng, dắt tay đến ngồi chung một chỗ và vịn vai nói: Đội ơn công đức Hiền Giả đã cứu mạng, nay lấy gì đền đáp đây?

Trẫm muốn chia Vương Quốc mỗi người một nửa. Thể nữ trong cung, kho tàng châu báu cũng chia làm đôi tha thiết Hiền Giả nhận cho.

Kỳ Vực thưa: Tâu Hoàng Thượng! Hạ thần vốn cũng là Thái Tử. Tuy là Vương Quốc nhỏ nhưng cũng có nhân dân, châu báu đầy đủ. Hạ thần không vui với ngôi vị trị nước nên cầu làm thầy thuốc đi trị bệnh. Hoàng Thượng cho đất đai, thể nữ, châu báu hạ thần không cần.

Trước kia Hoàng Thượng nghe hạ thần thỉnh năm điều nguyện, ngoại bệnh đã lành. Bây giờ, nếu Hoàng Thượng nghe một điều nguyện nữa thì nội bệnh dứt sạch.

Vua nói: Xin nhân giả chỉ dạy, muốn biết sự việc của điều nguyện đó.

Kỳ Vực thưa: Xin Hoàng Thượng thỉnh Phật đến để thọ chánh pháp cao minh. Vì Hoàng Thượng, Đức Phật sẽ nói công đức vời vợi tôn quí của Đức Thế Tôn.

Nhà Vua nghe thế quá vui mừng bảo: Vậy để Trẫm sai Ô lấy bạch tượng đón rước Đức Phật có được không?

Kỳ Vực nói: Không cần dùng bạch tượng, tất cả tâm niệm của mọi người ở xa Đức Phật đều biết. Miễn là Hoàng Thượng một đêm trai giới thanh tịnh, dâng cúng đầy đủ hương trầm, quay về hướng Phật làm lễ, quì gối thỉnh nguyện tự nhiên Đức Phật đến.

Nhà Vua làm như lời dặn. Sáng ngày Đức Phật cùng đầy đủ một nghìn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo đến đó. Sau khi thọ trai xong vì Nhà Vua Đức Phật Thuyết Kinh. Nhà Vua tâm ý khai giải liền phát tâm đạo Vô Thượng chánh chân. Cả nước lớn nhỏ đều thọ Ngũ Giới rồi cung kính làm lễ mà đi.

Lại nữa khi nàng Nại Nữ sinh ra rất kỳ dị, càng lớn càng thông minh, theo cha học vấn, uyên bác Kinh Đạo, thuật chiêm tinh toán số vượt hẳn hơn cha, lại thông thạo về âm nhạc tấu âm thanh như Phạm Thiên. Những đứa con gia đình Cư Sĩ và Phạm Chí tất cả năm trăm người theo học và tôn Nại Nữ là Đại Sư.

Nại Nữ cùng năm trăm đệ tử thường tán thán, trao đổi Kinh thuật hay du ngoạn chốn hoa viên, ao hồ hoặc chơi âm nhạc. Người trong nước không hiểu việc làm của họ nên sinh phỉ báng gọi Nại Nữ là dâm nữ, còn năm trăm đệ tử gọi là dâm đảng.

Lúc Nại Nữ sinh đồng thời trong nước có Tu Mạn Nữ và Ba Đàm Nữ cũng sinh cùng lượt. Tu Mạn Nữ là người sinh trong hoa Tu mạn. Trong nước có nhà Cư Sĩ thường bện hoa Tu mạn để làm hương cao. Bên chỗ bện thạch cao bỗng nhiên nhô khối u to như viên đạn.

Ngày ngày lớn dần như nắm tay rồi hòn đá nứt ra, trong kẻ đá có điểm tụ sáng như ánh lửa đom đóm, bắn ra ngoài rơi xuống đất. Ba ngày sinh ra cây Tu Mạn, ba ngày nữa thành hoa, trong hoa nở ra có một bé gái.

Nhà Cư Sĩ chăm sóc nuôi dưỡng và đặt tên là Tu Mạn Nữ. Khi nàng trưởng thành dung nhan diễm kiều, tài trí vẹn toàn nếu so sánh với Nại Nữ, nàng là người thứ hai.

Bấy giờ, lại có một gia đình Phạm Chí trong ao nhà tự nhiên mọc lên hoa sen xanh. Đặc biệt hoa sen không những lớn mà ngày càng vươn cao to bằng cái bình cỡ năm thăng. Khi hoa nở bên trong thấy có một bé gái, Phạm Chí giữ nuôi dưỡng đặt tên là Bà Đàm Nữ.

Khi lớn khôn nàng rất đẹp tài trí sánh như Tu Mạn Nữ. Vua các nước nghe đồn về hai người con gái này nhan sắc tuyệt đẹp, họ đem sính lễ đến cầu hôn.

Hai nàng nói: Chúng tôi không phải sinh ra từ bào thai mà sinh ra từ hoa thảo, nên cùng người phàm không đồng. Vậy làm sao thích hợp theo người đời cùng sánh đôi được. Nghe Nại Nữ thông minh dung nhan tuyệt thế, không thể sánh kịp với nàng.

Nại Nữ lại sanh đồng thể với chúng tôi. Họ từ biệt cha mẹ theo Nại Nữ cầu làm đệ tử, thấu rõ Kinh Điển, trí tuệ sáng suốt giỏi hơn năm trăm đệ tử kia.

Khi ấy, Đức Phật vào nước Duy Da Lê, Nại Nữ dẫn năm trăm đệ tử ra nghinh đón Đức Phật, đảnh lễ sát đất, quì gối bạch rằng: Kính thưa Thế Tôn! Ngày mai xin thỉnh Thế Tôn vào trong vườn chúng con thọ trai. Đức Phật mặc nhiên thọ nhận. Nại Nữ trở về chuẩn bị đầy đủ những thứ cúng dường.

Khi Đức Phật đi vào thành Nhà Vua ra khỏi cung nghinh đón Đức Phật xong, quì gối thỉnh Phật: Thưa Thế Tôn! Nguyện thỉnh Thế Tôn ngày mai đến cung thọ trai.

Phật đáp: Nại Nữ đã thỉnh ta trước rồi.

Nhà Vua buồn rầu nói: Con làm Vua một nước chí tâm thỉnh Phật tất nhiên được y hứa. Còn Nại Nữ chỉ là gái dâm, hàng ngày theo năm trăm đệ tử dâm loạn, làm việc trái phép.

Vì sao Thế Tôn từ chối con mà nhận lời thỉnh nguyện của nó.

Đức Phật bảo: Người con gái này không phải là dâm nữ, mà đời trước cô ta có công đức lớn đã cúng dường ba ức Phật. Xưa kia cô ta, Tu Mạn và Ba Đàm cùng là chị em. Nại Nữ là chị cả, Tu Mạn chị thứ còn Ba Đàm là út, cùng sinh trong một đại gia tộc tài sản châu báu vô số kể.

Chị em họ cùng nhau cúng dường cho năm trăm Tỳ Kheo Ni. Hàng ngày bày biện đồ ăn thức uống để cúng dường và may y phục tùy theo chỗ nào không có đều cúng dường đầy đủ.

Khi sắp lâm chung họ phát thệ nguyện: Chúng tôi nguyện đời sau được gặp Phật. Tự nhiên được hóa sinh không do bào thai, xa lìa dơ bẩn. Nay họ được thọ nguyện sinh vào thời của ta, nhờ xưa kia cúng dường Tỳ Kheo Ni.

Tuy làm con nhà giàu nhưng với ngôn ngữ kiêu mạn, luôn luôn trêu chọc giỡn cợt Tỳ Kheo Ni: Những người ở trong đạo lâu ngày buồn chắc cũng muốn có chồng, ngặt vì nhờ chúng tôi cúng dường kiểm soát nên các cô không dám phóng y tự tình đó thôi. Nên ngày hôm nay họ phải chịu nhiều tai ương đó, tuy hàng ngày tán tụng Kinh Điển đạo lý, nhưng vẫn bị phỉ báng là dâm nữ.

Lúc ấy, tất cả năm trăm đệ tử cùng sức tương trợ cúng dường, đồng tâm hoan hỷ, cho nên sinh ra gặp nhau hưởng chung cái quả như vậy.

Còn Kỳ Vực làm con gia đình nghèo, thấy Nại Nữ cúng dường ý rất vui mừng, nhưng không có tư tài nên thường giúp đỡ Tỳ Kheo Ni bằng công việc quét dọn cho sạch sẽ, rồi phát lời thệ nguyện: Nhờ công việc quét dọn, sau này giúp cho ta có thể quét trừ bệnh tật mọi người trong thiên hạ, quyết định như vậy. Nại Nữ thương Kỳ Vực nghèo khổ lại siêng năng cần cù nên nhận làm con.

Mỗi khi những vị Tỳ Kheo Ni có bệnh thường nhờ Kỳ Vực đón thầy thuốc về bổ thuốc và bảo: Đời sau ngươi và ta cả hai đều được phước. Kỳ Vực đón thầy thuốc về trị, trị tất nhiên là lành.

Kỳ Vực thề rằng: Ta nguyện Đời sau làm đại y Vương luôn trị bệnh tất cả thân Tứ Đại, trị dứt khoát là hết.

Nhờ nhân duyên ngày trước mà nay làm con Nại Nữ được như bổn nguyện.

Nhà Vua nghe Phật nói liền quỳ gối sám hối và đồng ý chờ ngày hôm sau.

Sáng ngày, Đức Phật cùng hàng Tỳ Kheo đến vườn Nại Nữ.

Vì tất cả Đức Phật đã thuyết bổn nguyện công đức.

Ba nàng nghe Kinh khai ngộ và tất cả năm trăm đệ tử một lượt vui mừng xin xuất gia tu hành, tinh tấn không giải đãi, họ đều đắc quả A La Hán.

Phật bảo A Nan: Ông phải thọ trì vì tứ chúng nói Kinh chớ để đoạn tuyệt. Tất cả chúng sanh cẩn thận thân, khẩu, ý chớ sinh kiêu mạn phóng dật. Như Nại Nữ ngày xưa vì chế nhạo, đùa giỡn Tỳ Kheo Ni nay phải bị phỉ báng là dâm nữ.

Ông phải tu hành nghiệp thân, khẩu, ý mãi mãi phát thiện nguyện, nghe Kinh tùy hỷ tin vui, thọ trì chớ sinh phỉ báng sẽ đọa vào địa ngục, dư báo làm súc sanh.

Trải qua trăm ngàn kiếp quả báo sau này làm người bần cùng hạ tiện, không nghe được chánh pháp, sinh trong gia đình tà kiến, thường gặp Vua ác, thân không đầy đủ. Ông phải tu hành thọ trì đọc tụng cho đến tận vị lai mãi mãi bất tuyệt.

Bấy giờ, A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, quì gối chắp tay bạch với Đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Chính yếu pháp này phải đặt tên Kinh gì?

Phật bảo A Nan: Kinh này gọi là Kinh nhân duyên Nại Nữ và Kỳ Vực. Tu hành theo pháp như trên, cúng dường Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, chỉ có bố thí thuốc và đón lương y tùy hỷ phát nguyện mà nay được quả báo như thế. Vậy nên thọ trì. Nghe Phật thuyết Kinh xong. Đại chúng Nhân Dân, Thiên Long Bát Bộ… đều hoan hỷ phụng hành.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần