Phật Thuyết Kinh Như Lai Hưng Hiển - Phần Bốn
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT
KINH NHƯ LAI HƯNG HIỂN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN BỐN
Lại nữa, Đại Thánh cùng Chư Bồ Tát không hề ngăn ngại, mỗi một đều tự nghĩ: Hôm nay chư Như Lai sở dĩ hưng hiển là vì giáo hóa Chư Bồ Tát nên hiện thân ở đời.
Các vị diễn thuyết phân minh, trí tuệ bình đẳng và tánh Chư Phật thanh tịnh lìa cấu nên hưng khởi ánh sáng này. Như Lai gồm đủ ánh sáng đạo tuệ vô lậu gọi là Phổ chiếu, ánh sáng này tỏ rõ chủng tánh Chánh Giác, trí tuệ pháp giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai.
Lại có ánh sáng tên là Tổng trì mang đến oai lực bất động và sự hưng hiển không gì sánh kịp của Như Lai. Lại có ánh sáng gọi là siêu việt nên mang lại trí tuệ vô úy và sự hưng hiển không có gì hơn của Như Lai. Lại có đạo ánh sáng gọi là nhất thiết thông mang lại các thông tuệ không gì là không thuận theo sự giáo hóa ấy.
Có đạo ánh sáng gọi là Hoại kiêu mạn, làm cho chúng Thanh Văn thấy được gốc công đức, không chỗ hư vọng, không có khiếm khuyết và không hề dính mắt của chư Như Lai. Có tuệ ánh sáng gọi là Phổ đức làm cho tất cả chúng sinh lúc thấy được Phật đều phải quay về và được phước tuệ vô tận cũng như vậy.
Có tuệ ánh sáng gọi là Viễn trung gian, tức Như Lai dùng trí tuệ thông diệu ấy để nhóm họp quy hướng tất cả đến pháp đạo Tam Bảo, không cho đoạn tuyệt. Có tuệ ánh sáng gọi là Nhược can chủng trang giáo nghiêm tịnh, tức là Như Lai dùng ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp mang lại sự đầy đủ và vui sướng cho khắp tất cả chúng sinh.
Lại có tuệ ánh sáng gọi là Vô đẳng luân, tức là Như Lai dùng ánh sáng ấy hóa độ tất cả bằng pháp điển, vào nơi Cõi Phật, thọ mạng vô lượng ngang bằng hư không đến chỗ rốt ráo không cùng cực.
Như vậy thưa Đại Sĩ! Mưa pháp của Như Lai chỉ là một vị tuệ, Như Lai không chỗ tưởng nghĩ, chỉ bày Bồ Tát thành tựu pháp đạo, biết rõ căn tánh chúng sinh mà vì họ thuyết Kinh Pháp. Trí tuệ Như Lai bình đẳng tất cả, ánh sáng Thánh Đạo không hề biện biệt, cho nên Như Lai xuất hiện ở đời.
Này Phật Tử! Xem đó thì biết Như Lai đem đến một vị giải thoát, hiển hiện phân minh, công đức thanh tịnh không có hạn lượng, không thể nghĩ bàn, làm cho tất cả chúng sinh đều được thấu rõ, đó là chỗ kiến lập của các bậc Đại Thánh.
Lại nữa, muốn cho không chỗ kiến lập của Như Lai hiển hiện pháp chưa từng có và muốn khuyến hóa ban bố cho một người đến chỗ vô thượng thì đó là sự hiển hiện đầy đủ gốc đức của Như Lai nếu có thể hiểu rõ và tưởng nghĩ về trí tuệ cùng công đức của Như Lai để được chứng đạt là điều chưa từng có.
Thánh chỉ Như Lai siêu vượt các pháp nên vì chúng sinh mà phân biệt hiển hiện làm cho họ nhập vào nghĩa này, tỏ rõ pháp sáng không biết chán đủ. Như Lai không có các tưởng, không chỗ niệm khởi, không có sở đắc, cũng không mang đến, không chỗ tạo tác cũng không phải không tạo tác, không có tác giả cũng không từ đâu đến thì đấy mới là sự hưng hiển của Như Lai. Đó là việc thứ tám.
Bồ Tát lại nói kệ rằng:
Như hoa sen sinh ra
Biết Phật hiện ở đời
Chư Thiên đều hoan hỷ
Từng thấy Phật quá khứ.
Nhìn thấy nước ở đây
Cung điện đều sáng trong
Đời nay không lâu nữa
Đều sẽ có cõi nước
Ánh sáng Phật chân thiện
Ấy vốn là điềm lành
Chỗ niệm của Bồ Tát
Không gì không biết rõ
Tuệ thức ấy thanh tịnh
Thân tinh khiết không bẩn
Mười lực cứu chúng sinh
Niệm hành các Cõi Phật
Rõ tất cả trong đời
Chỗ tạo nghiệp vô lượng.
Như nương ở trên đất
Đất biểu hiện nơi nước
Đều ở tại hư không
Đó là đại Cung Điện
Lưỡng túc cùng tứ túc
Chúng sinh cùng quy hướng
Tôn quý trong cõi người
Đã đạt ngôi Pháp Vương
Vì tất cả mọi loài
Chúng sinh đều nương nhờ
Nhìn thấy hoặc được nghe
Đều tôn sùng hầu hạ
Phá tan trần ái dục
Chỗ nương nghiệp chúng sinh
Trên đến Trời Phạm Thiên
Đều không có bờ mé
Ai đã vì chúng sinh
Mà muốn an vạn loài
Không gặp sáng vì mê
Mà cầu nơi trí tuệ
Không thí dụ mà dụ
Nên Tối thắng thị hiện.
Lại nữa, này Phật Tử! Ví như trong hư không tạo nên bốn thứ gió luôn nắm giữ nước.
Những gì là bốn?
1. Trụ phong.
2. Khởi phong.
3. Ngự phong.
4. Kiên cố phong.
Đó là bốn loại gió nắm giữ nước trong hư không. Đất ở trên nước chẳng lay động, đó gọi là địa lực. Nước ở trong gió, gió khởi lập ở hư không, hư không thì không chỗ trú, vì không chỗ trú nên có tất cả các xứ sở ở khắp Tam Thiên Thế Giới. Giả sử Như Lai xuất hiện, kiến lập gồm đủ ở đời không hề ngăn ngại. Sự sáng suốt của trí tuệ gồm có bốn bộ, tuệ trường vô cực, nắm giữ tất cả gốc đức của chúng sinh.
Những gì là bốn?
1. Dùng tuệ trường cảnh giới của tuệ vui thuận với chúng sinh.
2. Tuệ trường kiến lập các pháp nhân duyên.
3. Tuệ trường điều phục tất cả các việc và hộ trì các gốc đức.
4. Trú ở cảnh giới vô lậu mà thấy tuệ trường. Đó là bốn tuệ trường.
Đem những điều ấy mà dạy dỗ tất cả chúng sinh, tâm đại từ độ thoát quần mê, tâm đại bi nắm giữ tiếng Sư tử.
Vì có thể hưng lập đại từ đại bi này, phân biệt rõ ràng các chỗ hướng niệm của tất cả chúng sinh, trú ở phương tiện quyền xảo mà kiến lập hạnh từ, đó là hoài bảo xuất hiện của Như Lai được mãn nguyện. Lại nữa, Như Lai không chỗ ngăn ngại, sự sáng thông của Thánh đạt đều vô sở trú. Đó là việc thứ chín.
Bồ Tát lại nói kệ rằng:
Giống như hư không giới
Không hề có giới hạn
Thọ hữu sắc, vô sắc
Bao dung không giới hạn
Tám hướng cùng trên dưới
Cõi Phật, các sắc thân
Ba cõi không ra ngoài
Đó là hư không giới.
Như vậy các Thắng thân
Thị hiện ở cùng khắp
Quán sát khắp pháp giới
Ở chỗ có lẫn không
Tôn thể của Đại Thánh
Tất cả không thể thấy
Nếu thấy các Đạo Sư
Được khai hóa theo luật.
Lại nữa, này Phật Tử! Giống như Tam Thiên Thế Giới rộng lớn vô hạn, có vô số hạnh của các loài chúng sinh, hoặc có phương tiện đều không lìa hư không, hoặc ở trên nước, hoặc ở trên đất, hoặc Phân địa lợi đều không thể lường xét, mỗi một đều hành phương tiện quyền biến. Hoặc ở trong Cung Điện Chư Thiên, Cung Trời Tự Tại, hoặc tại hư không, họ vì cái không mà tự buông thả.
Như vậy thưa Đại Sĩ! Giả sử Như Lai hiển hiện giáo hóa, tất cả chúng sinh thấy được đều kính ngưỡng. Nếu có kẻ kính cẩn, hoan hỷ, tùy thời buông xả thì được trú vào Giác lực. Kế đến huân tập giới cấm, vui thích nghiệp lớn của Hiền thánh độ đời, Thần Thông tự tại trí tuệ vô tướng, thuyết không ngăn ngại, đó là cửa Thánh đạt.
Tu hành như vậy thì diễn thuyết sáng tỏ, tùy ý thành tựu mà không mất báo ứng, diễn giảng sáng tỏ, dẫn đạo các pháp, nhờ đó mà giáo hóa, không chỗ quên mất. Đó gọi là sự hiển hiện giáo hóa điều phục của Như Lai mà tất cả chúng sinh thảy đều kính ngưỡng, đó là pháp mười lực.
Này Phật Tử! Như Lai Chí Chân Đẳng Giác vì Chư Bồ Tát mà thị hiện giảng thuyết Kinh Pháp, có chỗ quay về không hề giới hạn, không có buông lung, cũng không hý luận. Tâm ý thức ấy có chỗ hưng phát, chỗ về vô tướng, tự nhiên như không, biết rõ chúng sinh tất là tự nhiên không thấy ta mình, chẳng có bờ mé.
Tất cả Cõi Phật đều chẳng có cõi, các cõi đều không, chỗ về không thoái chuyển, chẳng hề đoạn mất. Vào đời vị lai đạt đến Thánh tuệ Như Lai không chỗ vui thích cũng không ai sánh cùng, chỗ về không hai. Các pháp hữu hình, vô hình, hữu vi, vô vi đều bình đẳng. Giả sử thông hiểu tất cả chúng sinh vâng tu đại đạo, nghiệp tự buông bỏ, ấy là sự khuyến giúp từ thuở xưa nên có thể đủ đầy sự kỳ đặc ấy.
Này Phật Tử! Các loại ngôn từ vô hạn, nhóm họp chỗ nói, mang lại sự hưng hiển đại đạo của Như Lai.
Bồ Tát lại nói kệ rằng:
Tất cả các chúng sinh
Nương nhờ ở Cõi Phật
Đều nhờ hư không giới
Tức thuận theo giáo pháp.
Hoặc trong nước, trên đất
Hoặc ở Cung Điện Trời
Quỷ Thần cùng Long Vương
Đều quy ngưỡng ở đó
Hư không không nghĩ vậy.
Nay ta tạo chỗ nào
Đã vì chỗ nào mất
Vì ai tạo hiện nghĩa.
Trên cõi người như vậy
Thân bày các duyên pháp
Theo tất cả mười phương
Mà tạo biết bao hạnh
Giới cấm tự vui thích
Việc lớn Thánh độ đời
Dùng tuệ sáng thần thông
Vì ai ích lợi nghĩa
Hiển thị pháp trong lắng
Rõ các kiến hữu vô
Chưa từng khởi tưởng nghĩ
Lợi ích nào nên đạo.
Này Phật Tử! Vì sao chúng Bồ Tát thấy Như Lai đến vô hạn lượng?
Nếu Bồ Tát thân cận Như Lai tức là về với đạo.
Vì sao?
Vì không chỗ thấy là thấy Như Lai, thấy Như Lai tức là thấy một pháp thân, vì một pháp thân nên nếu đem từ tâm hướng đến một người tức là hướng đến, nuôi dưỡng khắp tất cả chúng sinh.
Như hư không giới không một chỗ nào mà không bao bọc, không một chỗ nào mà không vào, hoặc đến tất cả pháp hữu sắc, vô sắc, hữu hình, vô hình, hữu xứ, vô xứ, không chỗ đến, cũng không chỗ đi, tức không có tướng, vì không có tướng nên không một chỗ nào mà không hiện hữu. Phật thân cũng như vậy, vào khắp tất cả mọi loài chúng sinh, biết rõ các pháp, tất cả Cõi Phật, không một chỗ nào mà không biết đến và không từ đâu đến cũng không đi về đâu.
Vì sao?
Vì dụng vô thân là thân Như Lai, vì muốn khai hóa các loài chúng sinh nên hiện thân.
Này Phật Tử! Đó là Bồ Tát vào cửa quay về sự hưng hiển của Như Lai thứ nhất.
Lại nữa, này Phật Tử! Ví như hư không vô sắc, vô kiến, vô hình tướng nên không thể thấy, chỉ vì sự phân biệt của tất cả chúng sinh mà thấy sự bao trùm của nó rộng lớn cao vời, nhưng hư không chẳng hề tưởng nghĩ, chẳng hề bức bách.
Nếu thấy thân Như Lai thì cũng như vậy, chiếu khắp thế gian và độ thế sự là vì tội phước khác nhau của mỗi chúng sinh. Như Lai không từ đâu đến, chẳng đi về đâu, không chỗ ngăn ngại, cũng không thể đủ đắc.
Vì sao?
Quang minh của Đại Thánh trừ sạch tất cả tám mươi điên đảo. Đó là cửa vào thứ hai.
Bồ Tát nói kệ rằng:
Vì phát khởi rong ruổi
Liền diệt sạch ánh sáng
Ánh sáng thấy chúng sinh
Các nhân duyên lợi hại
Hư không chẳng hình sắc.
Như Lai cũng như vậy
Vì pháp thân bình đẳng
Cứu thoát mọi chúng sinh
Tối thắng vừa xuất hiện
Khai hóa mọi tối tăm
Dần dần quán sát nghĩa
Hưng thịnh gặp Phật đạo
Đạo đức thật rộng lớn
Chiếu sáng ba ngàn cõi
Độ thoát nạn sinh tử
Tâm rõ, không tưởng nghĩ
Như Lai không ai bằng
Thị hiện sự hơn kém
Nếu có kẻ tự huấn
Chứng thành ở Duyên Giác
Tất cả chúng sinh biết
Gần gũi Thánh trong người
Ví như Đại phạm chí
Tự ở cung Thanh minh.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tín Lực Nhập ấn Pháp Môn - Phần Mười
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Thuận Quyền Phương Tiện - Phẩm Bốn - Phẩm Tên Gọi Giả - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Thanh Tín Sĩ - ưu Bà Tắc
Phật Thuyết Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Biện đại Thừa - Phần Bảy