Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Mười Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống

PHẬT THUYẾT KINH

NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý

HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Duy Tịnh, Đời Triệu Tống  

PHẦN MƯỜI HAI  

Phát khởi là tẩy trừ xan cấu

Siêng làm là xả bỏ sở hữu

Đủ tâm bồ đề là quán sát

Tu hành là làm không cầu báo.

Phát khởi là làm vang hạnh xả

Thương người hành khất là siêng làm

Quán sát quán thọ dụng vô thường

Tu hành là cho rồi không tiếc

Nương pháp làm theo là phát khởi

Lương thiện tự sống là siêng làm.

Chân thật bố thí là quán sát

Tu hành bố thí không phân biệt

Phát khởi phá trừ bẩn phá giới

Giới cấm không khuyết là siêng làm.

Quán sát hộ trì người phá giới

Tu hành trọn giới không phân biệt

Phát khởi là thân nghiệp thanh tịnh

Siêng làm là ngữ nghiệp thanh tịnh.

Quán sát là tâm nghiệp thanh tịnh

Tu hành là các pháp thanh tịnh

Không nuôi dưỡng sân là phát khởi

Sức nhẫn hiện hành là siêng làm.

Giữ gìn tự, tha là quán sát

Nhẫn không phân biệt là tu hành

Phát khởi là làm sạch người sân

Siêng làm là không xa lìa họ.

Quán sát là nội tâm thanh tịnh

Tu hành mình, người vô sở đắc

Dứt cấu, lười biếng là phát khởi

Chọn sức tinh tấn là siêng làm.

Giúp người lười biếng là quán sát

Tu hành là tùy pháp trụ nhẫn

Phát khởi là chứa nhóm pháp lành

Siêng làm là thành tựu pháp thiện.

Quán sát là không ưa thừa khác

Tu hành là không hoại nghiệp báo

Hiểu rõ chánh niệm là phát khởi

Ngộ nhập pháp hành là siêng làm.

Khéo hộ chánh tuệ là quán sát

An trú bền chắc là tu hành

Phát khởi: Sửa đổi, siêng làm:

Dạy quán sát là các pháp môn ấy

Tu hành là biết đạo xuất ly

Phương tiện thiện quyền phát tinh tấn

Phát khởi nghĩa là văn tổng trì

Siêng làm là khéo tuyên thuyết nghĩa

Không chấp âm thanh là quán sát

Tu hành hiểu pháp bất khả thuyết.

Gần gũi thiện hữu là phát khởi

Xa lìa bạn ác là siêng làm

Quán tánh thiện ác là quán sát

Trì niệm các pháp là tu hành.

Xuất gia trong pháp là phát khởi

Bỏ ái, phi ái là siêng làm

Mong cầu pháp thiện là quán sát

Nơi pháp không chướng là tu hành.

Phát khởi là thích ở đồng vắng

Siêng làm là xa chốn ồn ào

Quán sát là ưa ở tĩnh lặng

Tu hành là tu hạnh tịch tĩnh.

Thiểu dục khéo nói là phát khởi

Hoan hỷ biết phận là siêng làm

Thọ được diệu lạc là quán sát

biết chỗ ứng lượng là tu hành.

Phát khởi là giới học tăng thượng

Siêng làm là việc tu không tạp

Quán sát là tâm học tăng thượng

Tu hành là tuệ học tăng thượng.

Bố thí trì giới là phát khởi

Nhẫn nhục tinh tấn là siêng làm

Thiền định trí tuệ là quán sát

Khởi trí phương tiện là tu hành.

Bố thí tài pháp là phát khởi

Ái ngữ có nghĩa là siêng làm

Lợi hành có nghĩa là quán sát

Đồng sự là chân thật tu hành.

Phát khởi là viên mãn đại từ

Siêng làm là đầy đủ đại bi

Quán sát là với pháp đại

Hỷ tu hành tức là trí đại xả.

Phát khởi là làm sạch Cõi Phật

Siêng làm là viên mãn tướng tốt

Quán sát là hộ trì chánh pháp

Tu hành là độ thoát chúng sinh.

Không chấp uẩn ma là phát khởi

Thoát phiền não ma là siêng làm

Thu phục Tử Ma là quán sát

Dẹp trừ Thiên Ma là tu hành.

Hiểu rõ khổ quả là phát khởi

Không tham ái dục là siêng làm

Tu đạo tức là cửa quán sát

Trụ trí tịch diệt là tu hành.

Phát khởi là lìa thân niệm xứ

Siêng làm là quán thọ niệm xứ

Quán sát là quán tâm niệm xứ

Tu hành là quán pháp niệm xứ.

Phát khởi nghĩa là tín căn lực

Siêng làm nghĩa là tấn căn lực

Quán sát là niệm định căn lực

Tu hành tức là tuệ căn lực.

Phòng trừ bất thiện là phát khởi

Không hoại pháp thiện là siêng làm

Thân tâm nhẹ nhàng là quán sát

Tu hành trí khởi bốn thần túc.

Phát khởi là tu bảy giác phần

Siêng làm là hành tám chánh đạo

Quán sát là tu tập chỉ, quán

Tu hành là giải thoát chân thật.

Phát khởi siêng làm khởi các hành

Tâm được nhẹ nhàng là quán sát

Trong cảnh giới các tướng không chuyển

Đấy gọi là tu hành an trú.

Hoặc thân hoặc tâm được khing an

Nơi kiến nơi nhân phải xuất ly

Trong ấy nếu hiểu rõ danh sắc

Chư Thánh khen ngợi là tinh tấn.

Nếu diệt được ngã và ngã sở

Là cởi bỏ tất cả trói buộc

Năm cái hiện rõ đều dứt sạch

Ác tác, nghi hoặc đều đoạn diệt.

Có thể phá các bệnh kết sử

Sức ấy trừ chướng, hết ngăn che

Mạn và quá mạn dứt trừ hết

Việc này đều do sức tinh tấn.

Trừ bỏ tất cả tướng các cõi

Ngừng nghỉ tất cả các hý luận

Đoạn diệt tất cả nhân phiền não

Người trí ngợi khen tinh tấn này.

Nghe xong công đức tinh tấn rồi

Ngợi khen dũng mãnh cùng tinh tấn

Mười ngàn Bồ Tát ở trong hội

Đều đạt được pháp nhẫn vô sinh.

Như Lai Thích Ca trong hội này

Vì các Bồ Tát rộng tuyên thuyết

Nghe nói tinh tấn trước khi hành

Năm ngàn Bồ Tát nhẫn thanh tịnh.

Lại có Thiên Nhân A Tu La

Và Khẩn Na La, các hội chúng

Bay giờ trong hội có trăm ngàn

Phát tâm bồ đề, khéo an trú.

Xưa ta tên là Kiên Cố Khải

Đắc quả Bồ Tát nhẫn tối thượng

Xả bỏ thân mạng tinh tấn tu

Qua thời gian dài không biếng trễ.

Gần gủi tám vạn bốn ngàn Phật

Xả bỏ thân mình để phụng sự

Hầu hạ Chư Phật trong một kiếp

Trải qua vô số địa Bồ Tát.

Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương Đại Bi Tư Duy thưa với Bồ Tát Hải Ý: Thưa Đại Sĩ! Pháp Phật có những ý nghĩa gì?

Bồ Tát Hải Ý đáp: Này Đại Phạm! Ở đây nói pháp Phật tức là nghĩa của tất cả pháp.

Vì sao?

Vì Như Lai không tướng phân biệt, như thật chứng đắc bồ đề. Tướng vô phân biệt tức là tướng bình đẳng của tất cả pháp. Như Lai ở trong đó như thật chứng đắc bồ đề.

Này Đại Phạm! Nếu hiểu rõ tất cả pháp bình đẳng tức là bồ đề nên ở đây nói tất cả pháp tức là pháp Phật. Nếu tất cả pháp như thế tức là pháp Phật thì tự tánh của tất cả pháp cũng như thế, đó là tự tánh pháp Phật. Vì lìa tất cả pháp nên biết pháp Phật cũng lìa. Vì tất cả pháp không, nên biết pháp Phật cũng không.

Này Đại Phạm! Tất cả pháp là duyên sinh. Nếu có thể hiểu rõ các pháp duyên sinh tức là bồ đề. Như Đức Như Lai đối với tất cả pháp thấy như thế nên đối với pháp Phật cũng thấy như thế.

Phạm thiên thưa: Thưa Đại Sĩ! Há chẳng phải pháp Phật vượt trên ba cõi sao?

Bồ Tát đáp: Này Đại Phạm! Tự tánh của ba cõi tức là Pháp Phật.

Vì sao?

Này Đại Phạm! Vì trong tướng bình đẳng của pháp Phật không có cao thấp, giống như hư không, cũng không cao thấp. Pháp Phật cũng như vậy, giống như hư không không cao không thấp.

Này Đại Phạm! Tất cả pháp cũng vậy, tự tánh không bình đẳng không cao không thấp.

Này Đại Phạm! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn biết pháp Phật thì nên nhận biết như thế, nhưng đối với cái biết đó chỉ là phương tiện, không nên chấp trước.

Lại nữa, Đại Phạm! Pháp Phật không phương hướng, không xứ sở, không sinh, không diệt, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, nên không có sắc hiển hiện, chẳng có hình tướng nên không sắc hình. Vì không hình hiển sắc nên vô tướng.

Này Đại Phạm! Nghĩa vô tướng tức là nghĩa pháp Phật. Nghĩa pháp Phật thì không rơi vào cú nghĩa. Không rơi vào cú nghĩa tức là nghĩa vắng lặng. Nghĩa vắng lặng tức là nghĩa ly. Nghĩa ly tức là nghĩa không. Nghĩa không tức là nghĩa không ràng buộc.

Nghĩa không ràng buộc tức là nghĩa thật tánh. Nghĩa thật tánh tức là nghĩa chân như. Nghĩa chân như tức là nghĩa cứu cánh bất sinh. Nghĩa bất sinh tức là nghĩa bất diệt. Nghĩa bất diệt tức là nghĩa không trụ xứ.

Bấy giờ, Bồ Tát Hải Ý lặp lại bằng bài tụng:

Nói là nghĩa vô tướng

Là nghĩa thắng pháp Phật

Nói nghĩa pháp Phật ấy

Không rơi vào cú nghĩa.

Không rơi nghĩa tịch tĩnh

Tịch tĩnh là nghĩa ly

Nghĩa ly tức nghĩa không

Nghĩa không là không chấp.

Không chấp là thật tánh

Thật tánh là chân như

Chân như tức cứu cánh

Nghĩa bất sinh bất diệt.

Bất diệt nghĩa vô xứ

Nghĩa pháp trụ như thế

Như chỗ trụ pháp giới

Các pháp trụ cũng vậy.

Như chỗ các pháp trụ

Pháp Phật trụ cũng vậy

Như chỗ không pháp trụ

Pháp sinh diệt cũng vậy.

Không chấp nghĩa các pháp

Trụ chân như không khác

Pháp Thanh Văn, Duyên Giác

Cũng tùy trú bình đẳng.

Trú pháp chỗ như vậy

Pháp Phật mầu vô thượng

Không phương hướng xứ sở

Nên an trú pháp Phật.

Chớ ở trong sinh diệt

Tùy quán các pháp Phật

Chẳng chẳng hiện hình sắc

Không pháp nhỏ khả đắc.

Không hình cũng không tướng

Mà sáng tỏ pháp Phật

Như tự tánh các pháp

Pháp Phật cũng như thế.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần