Phật Thuyết Kinh Những điều Bồ Tát Hải ý Hỏi Về Pháp Môn Tịnh ấn - Phần Mười Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẬT THUYẾT KINH
NHỮNG ĐIỀU BỒ TÁT HẢI Ý
HỎI VỀ PHÁP MÔN TỊNH ẤN
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Duy Tịnh, Đời Triệu Tống
PHẦN MƯỜI HAI
Phát khởi là tẩy trừ xan cấu
Siêng làm là xả bỏ sở hữu
Đủ tâm bồ đề là quán sát
Tu hành là làm không cầu báo.
Phát khởi là làm vang hạnh xả
Thương người hành khất là siêng làm
Quán sát quán thọ dụng vô thường
Tu hành là cho rồi không tiếc
Nương pháp làm theo là phát khởi
Lương thiện tự sống là siêng làm.
Chân thật bố thí là quán sát
Tu hành bố thí không phân biệt
Phát khởi phá trừ bẩn phá giới
Giới cấm không khuyết là siêng làm.
Quán sát hộ trì người phá giới
Tu hành trọn giới không phân biệt
Phát khởi là thân nghiệp thanh tịnh
Siêng làm là ngữ nghiệp thanh tịnh.
Quán sát là tâm nghiệp thanh tịnh
Tu hành là các pháp thanh tịnh
Không nuôi dưỡng sân là phát khởi
Sức nhẫn hiện hành là siêng làm.
Giữ gìn tự, tha là quán sát
Nhẫn không phân biệt là tu hành
Phát khởi là làm sạch người sân
Siêng làm là không xa lìa họ.
Quán sát là nội tâm thanh tịnh
Tu hành mình, người vô sở đắc
Dứt cấu, lười biếng là phát khởi
Chọn sức tinh tấn là siêng làm.
Giúp người lười biếng là quán sát
Tu hành là tùy pháp trụ nhẫn
Phát khởi là chứa nhóm pháp lành
Siêng làm là thành tựu pháp thiện.
Quán sát là không ưa thừa khác
Tu hành là không hoại nghiệp báo
Hiểu rõ chánh niệm là phát khởi
Ngộ nhập pháp hành là siêng làm.
Khéo hộ chánh tuệ là quán sát
An trú bền chắc là tu hành
Phát khởi: Sửa đổi, siêng làm:
Dạy quán sát là các pháp môn ấy
Tu hành là biết đạo xuất ly
Phương tiện thiện quyền phát tinh tấn
Phát khởi nghĩa là văn tổng trì
Siêng làm là khéo tuyên thuyết nghĩa
Không chấp âm thanh là quán sát
Tu hành hiểu pháp bất khả thuyết.
Gần gũi thiện hữu là phát khởi
Xa lìa bạn ác là siêng làm
Quán tánh thiện ác là quán sát
Trì niệm các pháp là tu hành.
Xuất gia trong pháp là phát khởi
Bỏ ái, phi ái là siêng làm
Mong cầu pháp thiện là quán sát
Nơi pháp không chướng là tu hành.
Phát khởi là thích ở đồng vắng
Siêng làm là xa chốn ồn ào
Quán sát là ưa ở tĩnh lặng
Tu hành là tu hạnh tịch tĩnh.
Thiểu dục khéo nói là phát khởi
Hoan hỷ biết phận là siêng làm
Thọ được diệu lạc là quán sát
biết chỗ ứng lượng là tu hành.
Phát khởi là giới học tăng thượng
Siêng làm là việc tu không tạp
Quán sát là tâm học tăng thượng
Tu hành là tuệ học tăng thượng.
Bố thí trì giới là phát khởi
Nhẫn nhục tinh tấn là siêng làm
Thiền định trí tuệ là quán sát
Khởi trí phương tiện là tu hành.
Bố thí tài pháp là phát khởi
Ái ngữ có nghĩa là siêng làm
Lợi hành có nghĩa là quán sát
Đồng sự là chân thật tu hành.
Phát khởi là viên mãn đại từ
Siêng làm là đầy đủ đại bi
Quán sát là với pháp đại
Hỷ tu hành tức là trí đại xả.
Phát khởi là làm sạch Cõi Phật
Siêng làm là viên mãn tướng tốt
Quán sát là hộ trì chánh pháp
Tu hành là độ thoát chúng sinh.
Không chấp uẩn ma là phát khởi
Thoát phiền não ma là siêng làm
Thu phục Tử Ma là quán sát
Dẹp trừ Thiên Ma là tu hành.
Hiểu rõ khổ quả là phát khởi
Không tham ái dục là siêng làm
Tu đạo tức là cửa quán sát
Trụ trí tịch diệt là tu hành.
Phát khởi là lìa thân niệm xứ
Siêng làm là quán thọ niệm xứ
Quán sát là quán tâm niệm xứ
Tu hành là quán pháp niệm xứ.
Phát khởi nghĩa là tín căn lực
Siêng làm nghĩa là tấn căn lực
Quán sát là niệm định căn lực
Tu hành tức là tuệ căn lực.
Phòng trừ bất thiện là phát khởi
Không hoại pháp thiện là siêng làm
Thân tâm nhẹ nhàng là quán sát
Tu hành trí khởi bốn thần túc.
Phát khởi là tu bảy giác phần
Siêng làm là hành tám chánh đạo
Quán sát là tu tập chỉ, quán
Tu hành là giải thoát chân thật.
Phát khởi siêng làm khởi các hành
Tâm được nhẹ nhàng là quán sát
Trong cảnh giới các tướng không chuyển
Đấy gọi là tu hành an trú.
Hoặc thân hoặc tâm được khing an
Nơi kiến nơi nhân phải xuất ly
Trong ấy nếu hiểu rõ danh sắc
Chư Thánh khen ngợi là tinh tấn.
Nếu diệt được ngã và ngã sở
Là cởi bỏ tất cả trói buộc
Năm cái hiện rõ đều dứt sạch
Ác tác, nghi hoặc đều đoạn diệt.
Có thể phá các bệnh kết sử
Sức ấy trừ chướng, hết ngăn che
Mạn và quá mạn dứt trừ hết
Việc này đều do sức tinh tấn.
Trừ bỏ tất cả tướng các cõi
Ngừng nghỉ tất cả các hý luận
Đoạn diệt tất cả nhân phiền não
Người trí ngợi khen tinh tấn này.
Nghe xong công đức tinh tấn rồi
Ngợi khen dũng mãnh cùng tinh tấn
Mười ngàn Bồ Tát ở trong hội
Đều đạt được pháp nhẫn vô sinh.
Như Lai Thích Ca trong hội này
Vì các Bồ Tát rộng tuyên thuyết
Nghe nói tinh tấn trước khi hành
Năm ngàn Bồ Tát nhẫn thanh tịnh.
Lại có Thiên Nhân A Tu La
Và Khẩn Na La, các hội chúng
Bay giờ trong hội có trăm ngàn
Phát tâm bồ đề, khéo an trú.
Xưa ta tên là Kiên Cố Khải
Đắc quả Bồ Tát nhẫn tối thượng
Xả bỏ thân mạng tinh tấn tu
Qua thời gian dài không biếng trễ.
Gần gủi tám vạn bốn ngàn Phật
Xả bỏ thân mình để phụng sự
Hầu hạ Chư Phật trong một kiếp
Trải qua vô số địa Bồ Tát.
Bấy giờ, Đại Phạm Thiên Vương Đại Bi Tư Duy thưa với Bồ Tát Hải Ý: Thưa Đại Sĩ! Pháp Phật có những ý nghĩa gì?
Bồ Tát Hải Ý đáp: Này Đại Phạm! Ở đây nói pháp Phật tức là nghĩa của tất cả pháp.
Vì sao?
Vì Như Lai không tướng phân biệt, như thật chứng đắc bồ đề. Tướng vô phân biệt tức là tướng bình đẳng của tất cả pháp. Như Lai ở trong đó như thật chứng đắc bồ đề.
Này Đại Phạm! Nếu hiểu rõ tất cả pháp bình đẳng tức là bồ đề nên ở đây nói tất cả pháp tức là pháp Phật. Nếu tất cả pháp như thế tức là pháp Phật thì tự tánh của tất cả pháp cũng như thế, đó là tự tánh pháp Phật. Vì lìa tất cả pháp nên biết pháp Phật cũng lìa. Vì tất cả pháp không, nên biết pháp Phật cũng không.
Này Đại Phạm! Tất cả pháp là duyên sinh. Nếu có thể hiểu rõ các pháp duyên sinh tức là bồ đề. Như Đức Như Lai đối với tất cả pháp thấy như thế nên đối với pháp Phật cũng thấy như thế.
Phạm thiên thưa: Thưa Đại Sĩ! Há chẳng phải pháp Phật vượt trên ba cõi sao?
Bồ Tát đáp: Này Đại Phạm! Tự tánh của ba cõi tức là Pháp Phật.
Vì sao?
Này Đại Phạm! Vì trong tướng bình đẳng của pháp Phật không có cao thấp, giống như hư không, cũng không cao thấp. Pháp Phật cũng như vậy, giống như hư không không cao không thấp.
Này Đại Phạm! Tất cả pháp cũng vậy, tự tánh không bình đẳng không cao không thấp.
Này Đại Phạm! Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn biết pháp Phật thì nên nhận biết như thế, nhưng đối với cái biết đó chỉ là phương tiện, không nên chấp trước.
Lại nữa, Đại Phạm! Pháp Phật không phương hướng, không xứ sở, không sinh, không diệt, chẳng phải xanh, chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải trắng, nên không có sắc hiển hiện, chẳng có hình tướng nên không sắc hình. Vì không hình hiển sắc nên vô tướng.
Này Đại Phạm! Nghĩa vô tướng tức là nghĩa pháp Phật. Nghĩa pháp Phật thì không rơi vào cú nghĩa. Không rơi vào cú nghĩa tức là nghĩa vắng lặng. Nghĩa vắng lặng tức là nghĩa ly. Nghĩa ly tức là nghĩa không. Nghĩa không tức là nghĩa không ràng buộc.
Nghĩa không ràng buộc tức là nghĩa thật tánh. Nghĩa thật tánh tức là nghĩa chân như. Nghĩa chân như tức là nghĩa cứu cánh bất sinh. Nghĩa bất sinh tức là nghĩa bất diệt. Nghĩa bất diệt tức là nghĩa không trụ xứ.
Bấy giờ, Bồ Tát Hải Ý lặp lại bằng bài tụng:
Nói là nghĩa vô tướng
Là nghĩa thắng pháp Phật
Nói nghĩa pháp Phật ấy
Không rơi vào cú nghĩa.
Không rơi nghĩa tịch tĩnh
Tịch tĩnh là nghĩa ly
Nghĩa ly tức nghĩa không
Nghĩa không là không chấp.
Không chấp là thật tánh
Thật tánh là chân như
Chân như tức cứu cánh
Nghĩa bất sinh bất diệt.
Bất diệt nghĩa vô xứ
Nghĩa pháp trụ như thế
Như chỗ trụ pháp giới
Các pháp trụ cũng vậy.
Như chỗ các pháp trụ
Pháp Phật trụ cũng vậy
Như chỗ không pháp trụ
Pháp sinh diệt cũng vậy.
Không chấp nghĩa các pháp
Trụ chân như không khác
Pháp Thanh Văn, Duyên Giác
Cũng tùy trú bình đẳng.
Trú pháp chỗ như vậy
Pháp Phật mầu vô thượng
Không phương hướng xứ sở
Nên an trú pháp Phật.
Chớ ở trong sinh diệt
Tùy quán các pháp Phật
Chẳng chẳng hiện hình sắc
Không pháp nhỏ khả đắc.
Không hình cũng không tướng
Mà sáng tỏ pháp Phật
Như tự tánh các pháp
Pháp Phật cũng như thế.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Xuất Diệu - Phẩm Ba - Phẩm Không Buông Lung - Tập Bốn
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Mười Tám - Pháp Hội Hộ Quốc Bồ Tát - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Mười Một
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Chín - Phẩm Chín Kệ
Phật Thuyết Kinh Bảo Tinh đà La Ni - Phẩm Năm - Phẩm Tướng - Phần Một
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - Kinh Jivaka
Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật - phẩm Bốn - Phẩm Vãng Sanh