Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Ba Mươi Năm - Phẩm Hai Thương Gia Cúng Phật

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:04 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM BA MƯƠI NĂM

PHẨM HAI THƯƠNG GIA CÚNG PHẬT  

Khi Đức Thế Tôn mới thành đạo, ngồi kiết già dưới gốc cây Bồ Đề bảy ngày đêm không đứng dậy, lấy an lạc giải thoát làm thức ăn.

Sau khi trải qua bảy ngày, Ngài nhất tâm chánh niệm, xuất khỏi chánh định, ngồi nơi Tòa Sư Tử, đêm đầu tiên Ngài quán sát mười hai nhân duyên: Từ chi cuối quán sát đến chi đầu, rồi từ chi đầu quán sát đến chi cuối. Khéo nghĩ, khéo quán sát, thấy rõ không khác, nhân nơi chi này sinh ra chi kia, nhân có chi kia mới có chi này.

Nghĩa là duyên vào vô minh mới có các hành, duyên vào các hành mới có thức, duyên vào thức mới có danh sắc, duyên vào danh sắc mới có lục nhập.

Duyên vào lục nhập mới có xúc, duyên vào xúc mới có thọ, duyên vào thọ mới có ái, duyên vào ái mới có thủ, duyên vào thủ mới có hữu, duyên vào hữu mới có sinh, duyên vào sinh mới có các khổ lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não.

Đức Thế Tôn biết các pháp này rồi, lại nói kệ:

Người tu phạm hạnh quán các pháp

Thì biết các pháp là tương sinh

Nếu biết các pháp nhân duyên sinh

Thì biết các pháp nhân duyên có.

Đức Thế Tôn vào nửa đêm ấy quán mười hai pháp nhân duyên, quán từ chi ban đầu cho đến chi cuối cùng, rồi chí tâm không thất niệm, không tán loạn, khéo quán sát, khéo suy nghĩ ngược lại: Do không có chi kia thì chi này không có, do chi kia diệt nên chi này tự diệt. Nghĩa là vô minh diệt thì hành tự diệt, hành diệt thì cho đến sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não tất cả đều diệt.

Khi ấy Đức Thế Tôn quán biết các pháp này rồi, Ngài liền nói kệ:

Người tu phạm hạnh quán các pháp

Thì biết các pháp nhân duyên sinh

Nếu biết các pháp nhân duyên sinh

Thì biết các pháp nhân duyên diệt.

Đức Thế Tôn vào nửa đêm ấy quán mười hai nhân duyên, quán từ chi cuối cùng đến chi ban đầu, không thất niệm, không tán loạn, khéo suy nghĩ, khéo quán sát cái kia đã sinh thì sinh cái này, nhân có cái kia nên có cái này. Cái kia không thì cái này cũng không, cái kia diệt thì cái này cũng diệt.

Nghĩa là duyên vô minh thì hành sinh, duyên các hành rồi thì tất cả các chi: Sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não đều tương sinh. Chi kia không sinh thì chi này cũng không. Chi kia diệt rồi thì chi này cũng diệt.

Khi ấy Đức Thế Tôn biết sự thật này rồi, Ngài nói kệ:

Như người phạm hạnh quán thế gian

Liền biết tương sinh cho đến diệt

Đã phá ma quân lập Đạo Tràng

Như mặt trời chiếu sáng hư không.

Bầy giờ Đức Thế Tôn từ nơi Tòa Sư Tử đứng dậy rời cây Bồ Đề chẳng bao xa, Ngài lại ngồi kiết già bất động trong bảy ngày, lấy hạnh giải thoát làm niềm an lạc. Trong bảy ngày ở bên cạnh cây Bồ Đề, chăm chú quán sát, mắt không nhắm.

Ngài nghĩ thế này: Ta ở nơi đây diệt cùng tận vô biên phiền não, đã xả bỏ gánh nặng. Sau khi trải qua bảy ngày chánh niệm, chánh tri, Ngài ra khỏi Tam Muội.

Về sau có người ở nơi Ngài ngồi quán sát, bên cạnh Bồ Đề này, xây một ngôi Tháp, đặt tên là Tháp Không nháy mắt và nói kệ:

Ở Đạo Tràng này diệt các khổ

Lại ngồi nơi đây quán tòa kia

Đạt được sở nguyện đến bờ giác

Ta chứng Bồ Đề tại nơi đây.

Bấy giờ Đức Thế Tôn từ Tháp Không nháy mắt đứng dậy, ung đung đi đến Ma Lê Chi nhà Tùy dịch là Dương Diệm nơi đi kinh hành. Sau khi đi kinh hành rồi, Ngài ngồi kiết già trải qua bảy ngày thọ hưởng niềm vui giải thoát. Trải qua bảy ngày rồi, chánh niệm, chánh tri, Ngài ra khỏi Tam Muội.

Ngay lúc ấy có Long Vương Ca La nhà Tủy dịch là Hắc sắc đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi lui đứng về một bên, bạch Phật: Thưa Thế Tôn, tại cung điện này, thuở xưa con đã từng cúng dường Chư Phật trong quá khứ. Chư Phật vì thương xót con nên đều nhận lấy và ở nơi cung điện này. Chư Phật đó là Đức Thế Tôn Câu Lưu Tôn, Đức Thế Tôn Câu Na Hàm Mâu Ni và Đức Thế Tôn Ca Diếp.

Ngày nay gặp Thế Tôn, lành thay! Thật đúng lúc. Xin Ngài thương xót con, ở nơi đây một thời gian ngắn.

Tại sao như vậy?

Vì con đã đem cung điện này cúng dường ba Đức Phật trong quá khứ. Ngày nay đến Thế Tôn là vị thứ tư vì con mà nhận lấy cung điện này, tức gọi làcung điện đầy đủ công đức của con được bốn Đức Phật nhận lấy. Lúc ấy Đức Thế Tôn nhận lời Long Vương Ca La, vào trong cung điện ngồi kiết già, trải qua bảy ngày an định không động, hưởng thọ niềm vui giải thoát.

Đức Thế Tôn trải qua bảy ngày chánh niệm, chánh tri rồi ra khỏi Tam Muội, bảo Đại Long Vương Ca La: Này Long Vương, ông đến với ta thọ pháp Tam Quy: Phật và ngũ giới. Ông sẽ hưởng thụ đại an lạc mãi mãi.

Long Vương Ca La liền bạch Phật: Xin vâng lời Đức Phật dạy, tâm không chống trái, con theo lời Thế Tôn đã bảo.

Long Vương Ca La nghe lời Đức Phật dạy như vậy rồi, liền chắp tay hướng về Đức Phật lãnh thọ ba pháp tự quy y: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, rồi lãnh thọ năm giới cấm, là cận sự nam đầu tiên trong thế gian. Trong loài súc sinh, tự nói ba pháp Tam Quy và Ngũ Giới, đó là Long Vương Ca La.

Thuở ấy, lại có một Long Vương khác tên là Mục Chân Lân Đà, đang hướng về chỗ Đức Phật. Khi đã đến nơi, Long Vương lễ dưới chân Đức Phật rồi lui về một bên.

Sau khi đứng về một bên, Long Vương bạch Phật: Thưa Đức Thế Tôn, cung điện này của con, thuở xưa đã từng cúng dường tất cả Chư Phật. Quý Ngài nhận lấy và ở trong đó. Chư Đức Phật đó là Đức Thế Tôn Câu Lưu Tôn, Đức Thế Tôn Câu Na Hàm Mâu Ni và Đức Thế Tôn Ca Diếp.

Hay thay! Ngày nay gặp được Thế Tôn, xin cũng vì con nhận lấy cung điện này, thì con sẽ được bốn Đức Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác thọ nạp cung điện này, con sẽ được lợi ích hoàn toàn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn tùy thuận Long Vương Mục Chân Lân Đà nhận lấy cung điện. Ngài ngồi kiết già trong cung điện này trải qua bảy ngày không đứng dậy, để hưởng niềm vui giải thoát.

Trong thời gian bảy ngày này, trên hư không kéo mây tuôn mưa, thổi cơn gió rất lạnh, mưa suốt bảy ngày không ngớt, không khí trở thành giá lạnh.

Khi ấy Long Vương Mục Chân Lân Đà ra khỏi cung điện, hiện thân to lớn, cuộn thành bảy ngày vòng che chở Đức Phật, lại hiện bảy đầu cúi xuống làm chiếc lọng lớn che trên đầu Đức Phật.

Tâm Long Vương nghĩ thế này: Chẳng để thân Thế Tôn bị gió rét lạnh và bụi bặm dính vào. Cũng đừng để các loài trùng, muỗi mòng chích Thế Tôn. Đã qua bảy ngày, bấy giờ Trời trong sáng không có mây mù, Đức Thế Tôn chánh niệm chánh trí ra khỏi Tam Muội.

Khi ấy Long Vương Mục Chân Lân Đà thu hình Rồng, hiện hình Bà La Môn trẻ tuổi, đứng trước Phật, chắp tay lễ sát đất bạch Phật: Vừa rồi không phải con muốn nhiễu loạn Như Lai, con hiện hình Rồng cuộn quanh Như Lai bảy vòng, lại hiện bảy đầu che trên đảnh Như Lai là muốn Như Lai được an ổn, chỉ sợ Thế Tôn bị gió nước thấm lạnh, đất bụi dính vào người, cùng côn trùng, muỗi mòng chích vào thân.

Bạch Đức Thế Tôn, do con nghĩ như vậy nên mới che phủ Thế Tôn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì nhân duyên này, tự nói kệ tán thán:

Biết đủ tịch định rất an lạc

Biết đủ quán sát rất sâu xa

An lạc không phiền não trong đời

Lại không sát hại các chúng sinh.

Nếu muốn ở đời thật an lạc

Tất cả tham dục phải xa lìa

Xả bỏ ngã mạn, tánh kiêu căng

Vui này tối thắng rất an lạc

Bao nhiêu dục lạc ở nhân gian

Nếu bỏ được hết không còn ái

Vui đời so sánh với vui đạo

Đạo mười sáu phần, đời không một.

Khi Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, bảo Long Vương Mục Chân Lân Đà: Đại Vương hãy đến đây thọ pháp Tam Quy và ngũ giới. Đại Vương sẽ mãi mãi thọ hưởng an lạc.

Long Vương Mục Chân Lân Đà bạch Phật: Đúng như lời Thế Tôn đã dạy, con luôn tuân theo. Mục Chân Lân Đà nghe lời dạy của Đức Phật, liền đến bên Đức Thế Tôn thọ pháp Tam Quy và ngũ giới.

Khi Đức Thế Tôn còn tu Bồ Tát hạnh, có một người chăn dê, trong thời gian sáu năm Bồ Tát tu khổ hạnh, người này đối với Đức Thế Tôn đem tâm thanh tịnh, tôn trọng cung kính cúng dường, lại đem sữa dâng cúng Thế Tôn và bẻ cành Ni Câu Đà cắm che mát Thế Tôn.

Khi ấy cành cây này biến thành đại thọ, người chăn dê này tùy theo nhân duyên thiện căn tín tâm ít nhiều này, sau khi qua đời sinh lên Cõi Trời Đao Lợi làm Thiên Tử, có đại oai lực thần thông tự tại.

Người chăn dê sau khi sinh lên Cõi Trời, lại suy nghĩ: Ta nay được quả báo, do nghiệp nhân gì mà được thân này?

Lại nghĩ: Nhớ thuở xưa khi Đức Thế Tôn còn là Bồ Tát, ta đích thân tạo nghiệp như thế này: Khi Bồ Tát tu khổ hạnh, ta đem sữa dâng cúng cho Ngài. Nơi Ngài ngồi, ta bẻ cành Ni Câu Đà cắm vào đất để che mát Bồ Tát. Nhờ thiện nghiệp đó, ta nay được quả báo vi diệu này.

Thiên Tử lại nghĩ thế này: Nhờ khi Đức Thế Tôn còn là Bồ Tát, ta gần gũi cúng dường nên nay được quả báo này. Ta cắm cành cây Ni Câu Đà che mát Đức Thế Tôn, nên nay được quả báo và có những thần thông vô ngại này.

Huống chi ngày nay Đức Thế Tôn đã chứng quả vô thượng bồ đề, Ngài vì ta mà trở lại nghỉ mát dưới bóng cây này. Vào nửa đêm, thân phóng hào quang rực rỡ, chiếu sáng đến cây Bồ Đề, Thiên Tử với ánh sáng Cõi Trời ấy đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, vị ấy đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui về một bên.

Khi ấy Thiên Tử liền bạch Phật: Hay thay, Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn vì thương xót con, nhận cây này, được an lạc theo ý muốn. Khi ấy Đức Thế Tôn vì thương xót Thiên Tử, nhận cây Ni Câu Đà mà thuở xưa người chăn dê đã cắm vào đất. Nhận lời rồi, Ngài ngồi kiết già bất động dưới cây này, trải qua bảy ngày để cảm thọ sự giải thoát an lạc.

Sau khi trải qua bảy ngày, Ngài chánh niệm chánh tri, ra khỏi Tam Muội, bảo Thiên Tử: Này Thiên Tử, lại đây!

Đến bên ta thọ lãnh pháp Tam Quy và Ngũ Giới. Người sẽ thọ hưởng an lạc lâu dài. Thiên Tử thọ ba pháp tự quy y và ngũ giới rồi, trong thế gian. Đây là vị Trời đầu tiên được Đức Phật trao cho ba pháp quy y và ngũ giới, làm người Ưu Bà Tắc.

Tiền thân vị này là người chăn dê, do cúng dường cây, sữa cho Bồ Tát, nên được quả báo thân Chư Thiên. Bấy giờ Đức Thế Tôn từ rừng người chăn dê trồng cây đứng dậy, ung dung đi dần đến một khu rừng phía dưới, tên là Sai Lê Ni Ca nhà Tùy dịch là rừng Chảy Sữa.

Đến khu rừng này, Ngài ngồi kiết già trải qua bảy ngày, vì muốn thọ an lạc giải thoát. Trải qua bảy ngày, Ngài xuất định, chánh niệm chánh tri.

Đức Thế Tôn trải qua bảy lần bảy ngày như vậy là do có sức thiền định an trụ liên tục. Được nàng Thiện sinh, con chủ thôn nọ cúng cháo sữa, Ngài chỉ thọ dụng một lần rồi sau đó không ăn gì nữa và sống đến ngày hôm nay. Thuở ấy, ở phía Bắc xứ Ấn Độ có hai thương chủ, một người tên là Đế Lê Phú Sa Tùy dịch là Hồ Qua.

Người thứ hai tên là Bạt Lê Ca Tùy dịch là Kim Đỉnh. Hai thương chủ này có nhiều trí tuệ, ngay thẳng, chín chắn. Hai người này từ Trung Ấn Độ xuất phát, với nhiều hàng hóa, chở đầy năm trăm xe, rất thuận lợi.

Khi ấy, hai thương chủ từ Trung Ấn quay trở về Bắc Ấn. Trên con đường trở về phải đi qua khu rừng Sai Lê Ni Ca, cách đó không xa, đoàn lái buôn tuần tự đi tới. Nhóm thương chủ ấy có một con trâu được huấn luyện đặc biệt, luôn luôn đi trước đoàn xe.

Chỗ nào có chướng ngại khủng bố thì con trâu được huấn luyện tốt này, dù có đánh đập, lấy dây cột kéo cũng không chịu đi. Bấy giờ ở rừng Sai Lê Ni Ca có vị thần giữ rừng.

Vị thần này ẩn thân giữ hai con trâu đã được huấn luyện, đứng yên không cho tiến bước. Hai thương chủ đều cầm cọng sen xanh đánh hai con trâu này, nó vẫn không chịu đi.

Năm trăm cỗ xe khác đều đứng yên, bánh xe cũng không di chuyển, các dây đai đều tự đứt đoạn, còn bao nhiêu những biến đổi kỳ lạ không tốt như càng, ách, trục, chốt, bầu, tăm, thành, thùng, dây cổ, móc câu, hoặc gãy, hoặc vỡ, hoặc nát, hoặc rách.

Lúc ấy hai thương chủ Đế Lê và Bạt Lê Ca hết sức sợ hãi, vô cùng khổ não, toàn thân dựng chân lông, bàn với nhau: Chúng ta đang gặp phải tai họa khác thường và chịu lấy tai ương gì đây!

Hai người rời cách xe vài ba bước, chắp tay trên đầu đảnh lễ tất cả Chư Thiên, tất cả thần linh, đứng yên chí tâm khấn vái: Nguyện xin tất cả những tai ương kỳ lạ khủng bố ngày hôm nay của hai con sớm được tiêu diệt, mau được điều lợi ích an ổn tốt đẹp.

Bấy giờ Thần thủ hộ khu rừng hiện nguyên hình, an ủi hai thương chủ: Này các thương chủ, chớ nên sợ hãi, các ông ở đây hoàn toàn không có tai ương hiểm họa. Này các thương chủ, ở đây chỉ có Đức Như Lai Thế Tôn Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, mới thành Phật vô thượng bồ đề, đang ở trong rừng này.

Từ khi Ngài thành đạo đến nay, trải qua đúng bốn mươi chín ngày chưa từng ăn uống. Này các thương chủ, nếu thấy đúng lúc, hai người nên đi đến chỗ Đức Vô Thượng, Chánh Giác, đem bánh bột sữa mật đến cúng dường trước tiên. Các ông sẽ được an lạc, nhiều sự lợi ích lớn mãi mãi.

Hai thương chủ nghe lời Thần hộ rừng nói như vậy, bạch: Như lời Thần dạy, chúng con xin làm theo. Hai thương chủ mỗi người đem bánh bột sữa mật cùng một số thương nhân đồng đi đến chỗ Đức Phật.

Khi gần đến nơi, hai thương chủ từ xa trông thấy Đức Phật dung nghi đoan chánh khả ái, trong thế gian không ai sánh bằng, cũng như các vì sao trên bầu Trời, các tướng trang nghiêm trên thân. Thấy rồi đem tâm rất kính trọng, lòng tin thanh tịnh, họ hướng đến trước Thế Tôn. Khi đến nơi, họ lễ dưới chân Đức Phật rồi, lui đứng về một bên.

Khi ấy hai thương chủ đồng bạch Đức Phật: Nguyện Đức Thế Tôn vì thương xót chúng con mà nhận lấy bánh bột sữa mật ngon sạch này.

Bấy giờ Đức Thế Tôn suy nghĩ: Thuở xưa tất cả Chư Phật Thế Tôn Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đều có thọ trì bát hay không?

Trong tâm Thế Tôn liền biết: Tất cả Chư Phật Thế Tôn Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác đều thọ trì bát.

Khi ấy Thế Tôn lại nghĩ: Ta nay phải dùng bát gì để nhận bột sữa mật của hai thương chủ này?

Khi Thế Tôn muốn nhận bát, thì bốn vị Thiên Vương đều từ bốn phương cấp tốc cùng mang bốn bình bát bằng vàng bay đến chỗ Đức Phật. Đến nơi, bốn vị đảnh lễ dưới chân Đức Phật rồi lui đứng một bên.

Khi bốn vị Thiên Vương đứng về một bên, liền đem bốn bát bằng vàng dâng lên Thế Tôn, bạch: Cúi xin Thế Tôn thương xót chúng con, nhận bát này để đựng bột sữa mật của hai vị thương chủ, để chúng con được nhiều an vui, lợi ích lớn lâu dài. Đức Thế Tôn không nhận, vì người xuất gia không nên chứa dùng bát bằng vàng.

Bốn vị Thiên Vương bỏ bốn bát bằng vàng, lại đem bốn bát bằng bạc dâng cúng Thế Tôn và bạch: Thưa Thế Tôn, Ngài có thể dùng bát này đựng thức ăn để chúng con được nhiều an vui, lợi ích lớn lâu dài, Thế Tôn không nhận.

Như vậy, bốn vị Thiên Vương lại đem bốn bát bằng pha lê, Thế Tôn cũng không nhận.

Như vậy, bốn vị Thiên Vương lại đem bốn bát bằng lưu ly, Thế Tôn cũng không nhận.

Như vậy, bốn vị Thiên Vương lại đem bốn bát bằng ngọc bảo mà Thế Tôn cũng không nhận.

Như vậy, bốn vị Thiên Vương lại đem bốn bát bằng mã não, Thế Tôn cũng không nhận.

Kế đến, bốn vị Thiên Vương lại đem bốn bát bằng xa cừ dâng cúng Thế Tôn. Thế Tôn lại cũng không nhận bốn bát này.

Khi ấy, Tỳ Sa Môn Vương thuộc phương Bắc, nói với ba vị Thiên Vương kia:

Ta nhớ thuở xưa Chư Thiên màu xanh đem bát bằng đá đến hiến dâng cho chúng ta và thưa với chúng ta: Quý Ngài có thể đựng thức ăn trong bát đá này mà ăn.

Lại lúc đó có một Thiên Tử khác tên là Tỳ Lô Giá Na thưa với chúng ta: Quý vị nhân giả Thiên Vương cẩn thận, chớ nên đựng đồ ăn trong bát này mà ăn. Quý nhân giả chỉ có thể cùng cúng dường như cúng dường Tháp vậy.

Tại sao?

Đời tương lai sẽ có một Đức Như Lai ra đời, tên của Đức Như Lai là Thích Ca Mâu Ni. Lúc ấy quý nhân giả nên đem bốn bát đá này dâng cúng cho Ngài. Các nhân giả Thiên Vương, nay đã đến lúc chúng ta đem bốn bát ấy dâng cúng cho Thế Tôn.

Bấy giờ bốn vị Thiên Vương trấn bốn phương, đều đem theo quyến thuộc chung quanh, vội đi vào cung điện của mình, mỗi vị lấy một cái bát đá màu xanh biếc đẹp đẽ, thoa các thứ hương thơm vào bát rồi đựng đầy các thứ hoa Trời, lại đem tất cả âm nhạc Cõi Trời cúng dường chiếc bát này, hướng về chỗ Đức Phật.

Sau khi đến nơi, họ đồng đem bốn bát dâng cúng Thế Tôn, bạch: Cúi xin Đức Thế Tôn nhận chiếc bất này, dùng bát này để đựng bánh bột sữa mật của hai thương chủ. Xin Ngài thương xót chúng con, để cho chúng con được nhiều điều lợi ích an lạc lâu dài.

Bấy giờ Thế Tôn lại nghĩ: Bốn vị Thiên Vương này đem lòng tin thanh tịnh cúng cho ta bốn cái bát, ta không thể dùng cả bốn cái.

Nếu ta nhận bát một người thì ba người còn lại sẽ giận.

Nếu ta nhận bát hai người, thì hai người còn lại sẽ giận.

Nếu ta nhận bát ba người thì một người còn lại sẽ giận.

Ta hãy nhận bốn bát rồi đem sức thần thông biến thành một bát.

Lúc ấy Đức Thế Tôn nhận bát của Thiên Vương Đề đầu lại tra rồi nói kệ:

Khéo cúng Thế Tôn bình bát tốt

Người quyết sẽ thành diệu pháp khí

Đã cứng cho ta bát thanh tịnh

Quyết tăng trí tuệ, tâm chánh niệm.

Đức Thế Tôn cũng nhận bát của Thiên Vương Tỳ Lâu Lặc Xoa thọ nhận một bát, rồi nói kệ:

Ta quán chân như ai cúng bát

Người ấy chánh niệm tâm tăng trưởng

Nhờ bát nuôi lớn đời an lạc

Mau được an lạc thân thanh tịnh.

Đức Thế Tôn cũng nhận bát của Thiên Vương Tỳ Lâu Bát Xoa, rồi nói kệ:

Ông đem tịnh tâm cúng tịnh bát

Thật tâm thanh tịnh cúng Như Lai

Tương lai mau chứng tâm thanh tịnh

Thế gian người Trời đều vừa ý.

Đức Thế Tôn cũng nhận một bát của Thiên Vương Tỳ Sa Môn, rồi nói kệ:

Chư Phật Thế Tôn trì tịnh giới

Điều phục các căn cúng bát lành

Tâm không khuyết hoại ân trọng cúng

Đời sau ông được ruộng thanh tịnh.

Khi ấy Đức Thế Tôn nhận bốn bình bát rồi, theo thứ lớp chồng trên bàn tay trái, rồi dùng bàn tay phải đè xuống.

Do sức thần thông, bốn bát hợp thành một bát mà thành bát có bốn lớp, Ngài nói kệ:

Xưa tu công đức nay quả nhãn

Nhờ phát tâm thanh tịnh từ mẫn

Do vậy hôm nay Tứ Thiên Vương

Thanh tịnh kiên cố cúng ta bát.

Có kệ nói:

Thuở ấy Thế Tôn muốn thọ thực

Thiên Vương bốn hướng mang bát đến

Tỏ lòng dâng cúng Phật Thế Tôn

Thọ rồi thần thông biến một bát.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì lòng thương hai vị thương chủ Đế Lê Phú Sa và Bạt Lê Ca Bắc Ấn Độ nên nhận bánh bột sữa mật đựng trong bát mới sạch của bốn vị Thiên Vương vừa cúng, đúng như pháp mà thọ thực.

Khi Ngài thọ trai xong, bảo hai vị thương chủ cùng hàng thương nhân: Này các thương chủ, các người nhận với ta ba pháp quy y: Phật, Pháp, Tăng và thọ năm giới cấm, sẽ làm cho các ông được an lạc, nhiều lợi ích lớn lâu dài.

Hai vị thương chủ cùng quyến thuộc nghe Đức Phật nói như vậy, cùng nhau bạch Phật: Chúng con theo lời Phật dạy, không làm trái. Họ cùng nhau thọ ba pháp tự quy y. Ở trong nhân gian người đầu tiên thọ Tam Quy và Ngũ Giới làm vị Ưu Bà Tắc là hai thương chủ Đế Lê Phú Na và Bạt Lê Ca.

Lúc ấy Đức Thế Tôn vì hai thương chủ nói kệ tùy hỷ:

Vật thí đầy đủ sắc, hương, vị

Phương tiện thọ rồi lìa phiền não

Trong đó hòa hợp đủ thức ăn

Nên được gọi là bột sữa mật.

Ăn xong, thân thể mịn tươi sáng

Mặt sáng như hoa, dung nhan đẹp

Khí lực dồi dào, được lợi ích

Trừ được đói khát, tâm an ổn.

Cúng Phật Thế Tôn cháo như vậy

Khiến hàng phạm hạnh được no đủ

Ta đã thọ thực được no nê

Hai vị thương chủ cúng bánh bột.

Ta họ Cam Giá, dòng Nhật Chủng

Ca ngợi người này là tối thượng

Do vì công đức bố thí này

Sẽ đạt Thánh trí quả cùng cực

Các lậu tất cả đều diệt sạch,

Do vì nhân duyên tạo nghiệp này

Sau lại dần dần không sợ sệt

Giải thoát dần phiền não ràng buộc

Chứng được vô lậu, được thảnh thơi.

Thí như ruộng tốt, rất bằng phẳng

Hạt giống, mầm, mạ đều tươi tốt

Mưa thuận, gió hòa đúng thời tiết

Lúa mạ mọc nhiều tăng trưởng tốt

Bởi do hạt giống tốt như vậy

Mọc rồi phát triển thật sum suê

Dé lúa nặng quằn tăng gấp bội

Thâu hoạch sản lượng vô số kể.

Cũng như thành tựu các giới hạnh

Bố thí thật nhiều thức ăn uống

Sau được quả bảo tốt không lường

Do xưa, nay lợi, lẽ dĩ nhiên.

Nếu người muốn cầu đời sau lợi

Hy vọng chuyển thành nhiều quả tốt

Chỉ việc cúng dường bậc Nhân Trí

Sẽ thành diệu quả chứng Bồ Đề

Và thành Thiện Thệ, Thế Gian Giải

Tâm mình đã được nhiều lợi ích

Rồi lại vì người nói các pháp

Người được tự lợi, lợi chúng sinh

Như vậy tôn xưng bậc đại trí

Muốn được tự lợi, lợi tất cả

Muốn chứng đạo quả để độ sinh.

Đối với tam Bảo, Phật, Pháp, Tăng

Tâm phải phát sinh hạnh chánh tín

Nhờ tín tâm nên được quả báo

Tín hạnh được rộng lớn hoàn hảo

Thì được giới hạnh khó nghĩ bàn

Tức chứng Tối Thắng Vô Thượng Đạo

Bố thí được quả Tối Thắng này

Thấy được chân thật của Thế Giới.

Lại chứng đạo quả trí viên mãn

Thánh Quả phải chánh kiến như vậy

Thấy được như vậy là chánh niệm

Trần lao phiền não đều tan biến,

Chứng được vô úy đại Niết Bàn

Giải thoát các khổ ở thế gian

Như vậy các pháp được đầy đủ

Chư Thánh khen đây là tối thượng.

Sinh, già, bệnh, chết đều không còn

Buồn khổ biệt ly đều diệt sạch

Thập lực Thế Tôn khen lạc này

Sẽ đến nơi thường, không sinh tử.

Bấy giờ hai vị thương chủ Đế Lê Phú Sa và Bạt Lê Ca cùng các thương nhân đồng bạch Phật: Bạch Đại Đức Thế Tôn, đoàn người chúng con đang trên đường về, cúi xin Thế Tôn vì chúng con chú nguyện an lành, để cho chúng con không gặp điều chướng ngại, sớm trở về nước mình.

Lúc ấy Đức Thế Tôn vì hai thương chủ và đoàn thương gia nói lời nguyện an lành bằng kệ:

Nguyện loài hai chân lợi lạc lớn

Cả loài bốn chân cũng bình an

Trên đường về quê nhiều điềm tốt

Đi đến các nơi đều như ý,

Ngày đêm đi, nghỉ được vừa lòng

Trong ngày ở đâu cũng nhiều lợi

Các nơi đều được theo ý nguyện

Thương chủ, thương nhân đều khỏe mạnh.

Muốn có giống tốt để sạ ruộng

Sạ rồi hy vọng thu hoạch nhiều

Tất cả thương nhân đi cầu lợi

Vào biển tìm ngọc thật gian nan

Các ông hy vọng nên lên đường

Sở nguyện được lợi mau thành tựu.

Ta nay thành đạo thật vui mừng

Nguyện ông đến đâu đều tốt đẹp

Tất cả tài lợi theo nhu cầu

Những gì ông muốn chóng vừa lòng

Tất cả các phương ông đi đến

Nguyện đều không có các tai ương.

Bấy giờ hai thương chủ đồng bạch Phật: Thưa Thế Tôn, xin Ngài cho chúng con một vật làm kỷ niệm, để khi về quê hương không còn thấy Thế Tôn, chúng con lấy vật này xây Tháp, lễ bái để tỏ lòng thương nhớ Đại Thánh Thế Tôn. Chúng con tôn trọng cúng dường trọn đời.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đem tóc, móng trên thân minh cho các thương chủ làm vật kỷ niệm và bảo họ: Này các thương chủ, móng tóc này ta đem cho để các ông làm vật kỷ niệm, thấy vật này cũng như thấy ta. Sau này sẽ có một tảng đá từ trên hư không rơi xuống nơi quê hương các ông. Nếu các ông thấy, phải xây Tháp nơi đó tôn trọng cúng dường.

Khi ấy hai thương chủ Đế Lê Phú Sa và Bạt Lê Ca nhận tóc, móng nơi Đức Phật rồi thầm nghĩ: Tóc, móng này là vật đào thải trên thân, không phải pháp thắng diệu, không nên đem tôn trọng cúng dường.

Lúc ấy Đức Phật biết tâm niệm của các thương nhân nên bảo họ: Này các thương chủ, chớ nên có ý nghĩ như vậy. Ta nhớ thuở xưa trải qua vô lượng vô biên kiếp số không thể nghĩ bàn, có Đức Thế Tôn xuất hiện ở đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trong Tâm, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Thuở ấy ta là đồng tử Bà La Môn thông suốt bốn Bộ Luận Tỳ Đà. Khi thấy Đức Thế Tôn đi vào thành Liên Hoa, ta đem năm cành hoa sen xanh rải trên Đức Phật, liền khi đó phát tâm bồ đề.

Đức Thế Tôn Nhiên Đăng liền thọ ký cho ta: Này Đồng tử, ở đời vị lai trải qua số kiếp A tăng kỳ ông sẽ thành Phật Hiệu là Thích Ca Mâu Ni Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Bấy giờ ta lìa gia đình, cạo bỏ râu tóc xuất gia, ở trong pháp của Thế Tôn Nhiên Đăng.

Sau khi ta xuất gia, tất cả Chư Thiên lấy hết tóc của ta mà chia ra, cứ mười muôn Chư Thiên thì được một sợi tóc cùng nhau đem về cùng cúng dường.

Từ đó đến nay, ta đã thành Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, bằng Phật nhãn, ta thấy các chúng sinh ấy không một ai không vào Niết Bàn.

Ta lúc đó chưa thoát khỏi tham dục, sân si mà ngàn vạn ức vô lượng vô số chúng sinh cúng dường tóc của ta vẫn còn chứng Niết Bàn. Huống chi ngày nay, tất cả phiền não, tham, sân, si kết hoặc tất cả đều trừ diệt hết.

Các ông vì lý do gì không hết lòng tôn trọng móng, tóc thanh tịnh không ô nhiễm này?

Hai thương chủ và các thương nhân nghe Đức Thế Tôn nói sự việc nhân duyên quá khứ liền đối với móng, tóc ấy sinh tâm hy hữu, hết sức tôn trọng cung kính, đảnh lễ đầu sát chân Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi lui bước lên đường.

Có kệ nói:

Thương nhân các phương qua lối này

Thọ Thần hay được bảo họ:

Đây có Thế Tôn được tự lợi

Các ông lễ cúng các thức ăn.

Đức Thế Tôn trải qua bốn mươi chín ngày không ăn uống, đầu tiên nhận vật thực nơi các thương nhân. Thế Tôn sau khi ăn xong, do nghiệp lực quá khứ nên thức ăn không tiêu, bỗng nhiên đau bụng.

Lúc ấy, ở núi này có một Dược Thần đem quả A Lê Lặc mới có, ngon ngọt vô cùng, đi đến chỗ Đức Phật, khi đến nơi đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui về một bên, bạch Phật: Thưa Thế Tôn, nếu Ngài có đau bụng, trái A Lê Lặc vừa mới ra đầu tiên vô cùng ngon ngọt, con đem đến đây dâng cúng Thế Tôn. Nếu Ngài thấy hợp thời, xin vì con mà nhận quả A Lê Lặc này. Xin Ngài thương xót con mà dùng.

Nếu Thế Tôn trong bụng có bệnh, sau khi ăn quả A Lê Lặc này rồi, bệnh liền hết. Đức Thế Tôn vì thương xót vị Dược Thần liền nhận quả A Lê Lặc.

Nhận rồi, bảo Thọ Thần: Này Dược thần, hãy đến đây quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và thọ giới năm giới cấm, ông sẽ ở được nhiều điều an lạc lợi ích lớn lâu dài.

Dược thần nghe Đức Phật dạy, liền bạch Phật: Thưa Thế Tôn, tốt lắm! Con không trái lời Phật dạy. Dược thần thọ ba pháp quy y và năm cấm giới. Đương thời, trong tất cả Dược Thần Thiên Nữ được Thọ Tam Quy và Ngũ Giới, làm vị Ưu Bà Di đầu tiên là vị Dược Thần Thiên Nữ ở chung quanh núi của các đại Dược Thần.

Đức Thế Tôn nhận quả A Lê Lặc từ nơi Thiên Nữ Dược Thần dâng cúng, Ngài ăn quả, còn hạt đem gieo xuống đất. Nhờ thần lực tự tại của Đức Phật, hạt A Lê Lặc nội trong ngày đó liền phát triển thành rễ.

Thân, cây, cành, nhánh của đại thọ liền đâm chồi nảy lộc, ra hoa, kết quả, rồi thành quả chín. Bệnh đau bụng của Đức Thế Tôn cũng hết.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần