Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Một - Phẩm Phát Tâm Cúng Dường - Phần Hai

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM MỘT

PHẨM PHÁT TÂM CÚNG DƯỜNG  

PHẦN HAI  

Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con đã từng nghe những gì từ kim khẩu của Phật nói ra, con gắng tâm ghi nhớ chẳng quên, đó là trí tuệ của Chư Phật thông suốt, không bị chướng ngại, không ai sánh bằng Bạch Thế Tôn, phải chăng trí tuệ của Như Lai thật sự nhận biết như vậy?

Thế Tôn bảo A Nan: Trí tuệ của Như Lai biết rõ tất cả. Cho nên sư hiểu biết của Như Lai không có chướng ngại. Như Lai muốn tạo ra cảnh giới rộng hẹp, nghĩ đến trí tuệ của Chư Phật, mức độ rộng hẹp ấy đều được tùy ý.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan lại bạch Phật: Thưa Thế Tôn, cũng như Tôn Giả A Ni Lô Đậu dùng thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy được một ngàn Thế Giới.

Còn như Thế Tôn nói: Ta thấy vô biên Thế Giới, nghĩa này như thế nào?

Lúc ấy Đức Phật im lặng. Tôn Giả A Nan lại hỏi như vậy, cho đến lần thứ ba, sau đó Đức Phật mới trả lời.

Đức Phật bảo: Này A Nan, ông chớ đem trí tuệ của hàng Thanh Văn để so sánh với trí tuệ của Như Lai!

Vì sao?

Ta nay dùng Thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt nhân gian, thấy trong hằng hà sa số cõi nước của Chư Phật ở phương Đông, có các vị Bồ Tát mới phát tâm bồ đề, trồng các thiện căn.

Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của Chư Phật ở phương Đông có vô lượng Bồ Tát được thọ ký.

Hoặc thấy trong hằng hà sa số cõi nước của Chư Phật ở phương Đông có chư vị Bồ Tát tu hạnh Bồ Tát.

Hoặc thấy vô lượng Bồ Tát gần gũi nơi Chư Phật, tu hạnh thanh tịnh, sau sinh lên cung Trời Đâu Suất, giáng thần nhập vào thai mẹ.

Hoặc thấy Bồ Tát đản sinh từ hông bên phải của Thánh Mẫu.

Hoặc thấy Bồ Tát sống cuộc đời Đồng Tử.

Hoặc thấy Bồ Tát ở trong cung thị hiện thú vui năm dục.

Hoặc thấy Bồ Tát bỏ ngôi Chuyển Luân Thánh Vương xuất gia tu đạo giải thoát.

Hoặc thấy Bồ Tát hàng phục bốn thứ ma.

Hoặc thấy Bồ Tát ngồi bên gốc cây Bồ Đề chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Hoặc thấy Bồ Tát chứng đạo bồ đề rồi, thọ hưởng an vui giải thoát.

Hoặc thấy có Bồ Tát thiền tọa tư duy hai thứ phân biệt.

Hoặc thấy có Bồ Tát khi chuyển pháp luân.

Hoặc thấy Bồ Tát khi vì chúng sinh xả bỏ thân mạng, sắp vào Niết Bàn Vô Dư.

Hoặc thấy Bồ Tát sau khi nhập Niết Bàn, thời kỳ chánh pháp và Tượng pháp trụ ở đời của mỗi vị xa gần, nhiều ít, lâu mau.

Này A Nan, ta thấy hằng hà sa số Chư Phật thành đạo trong các cõi nước Phật ở phương Đông như vậy, sau khi các Ngài diệt độ, thời kỳ Chánh Pháp, Tượng Pháp đều qua hết.

Như những nước của Chư Phật ở phương Đông, các phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương phụ và phương Trên phương Dưới cũng lại như vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo A Nan: Này A Nan, ta nhớ thuở xa xưa trải qua vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, không thể dùng số để tính toán, không thể dùng lời nói để trình bày, lúc ấy, có một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thiện Kiến, thống lãnh bốn phương, đem chánh pháp trị đời, dân chúng dưới sự cai trị của Chuyển Luân Thánh Vương này đều được giàu có, an vui. Nhà Vua không dùng các thứ hình phạt đánh đập, cũng không sát hại. Chấm dứt cảnh binh đao, đem chánh pháp dạy dân.

Này A Nan, kinh thành của Vua Thiện Kiến đang ở tên là Diêm Phù Đàn. Thành này mặt Đông Tây rộng mười hai do tuần, bề mặt Nam Bắc rộng bảy do tuần.

Này A Nan, thành Diêm Phù ấy thanh tịnh trang nghiêm, đẹp đẽ lạ thường, đều dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, lưu ly và pha lê trang trí.

Ngoài thành lại có bảy lớp bờ thành khác, mỗi thành đều cao bảy tầm, dày ba tầm, có bảy lớp lan can bao quanh, đều được chạm trổ tinh vi, đẹp đẽ hết mực, ít có thành nào sánh bằng, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê cấu trúc.

Hoặc lan can bằng vàng ròng, trụ cột bằng vàng ròng, bệ cửa sổ bằng bạc trắng.

Hoặc lan can bằng bạc trắng, trụ cột bằng bạc trắng, bệ cửa sổ bằng vàng ròng.

Hoặc lan can bằng pha lê, trụ cột bằng pha lê, bệ cửa sổ bằng lưu ly.

Hoặc lan can bằng lưu ly, trụ cột bằng lưu ly, bệ cửa sổ bằng pha lê.

Trong mỗi thành cửa bảy lớp thành này đều có bảy lớp hàng cây Đa La báu, trong thành hàng bao quanh. Những cây này hoa quả phơi bày, cành lá sum suê, tươi tốt, thu hút người xem.

Thân và rễ của nó đều bằng bốn thứ báu là vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, pha lê.

Cây Đa La bằng vàng, rễ thân bằng vàng, cành lá bằng bạc, hoa quả bằng vàng.

Cây Đa La bằng bạc, rễ thân bằng bạc, cành lá bằng vàng, hoa quả bằng vàng.

Hoặc cây Đa La bằng pha lê, rễ thân bằng pha lê, cành lá bằng lưu ly, hoa quả bằng lưu ly.

Hoặc cây Đa La bằng lưu ly, rễ thân bằng lưu ly, cành lá bằng pha lê, hoa quả bằng pha lê.

Những cây Đa La này đều có lưới giăng, trong khoảng không nơi lưới giăng ấy đều có treo linh báu.

Những lưới treo và linh này, đều làm bằng bảy thứ báu, đó là: Vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, pha lê.

Ở bên ngoài những thành ấy, có bảy lớp hào vây quanh.

Hào đó rất sâu, chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt.

Mặt hào phẳng lặng, trong hào có rất nhiều loài hoa quý, đó là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng, hoa sen trắng lớn trải khắp trên mặt nước.

Dưới đáy những hào này rải bằng cát vàng.

Giáp vòng chung quanh bờ hào có lưới bằng bảy báu giăng bủa khắp nơi.

Này A Nan, thành Diêm Phù ấy, bốn mặt đều có mười sáu cửa.

Các cửa thành đều làm bằng bốn chất liệu quý báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly.

Cửa bằng vàng thì cánh cửa bằng bạc, cửa bằng bạc thì cánh cửa bằng vàng.

Hoặc cửa bằng pha lê thì cánh cửa bằng lưu ly, hoặc cửa bằng lưu ly thì cánh cửa bằng pha lê.

Các cửa thành này, mỗi mỗi cửa đều có một vọng đài canh gác, trước thềm nơi mỗi tầng lầu cao vút đều treo những bức lưới bằng bảo châu.

Đài này cũng dùng bảy thứ báu trang hoàng tinh xảo đẹp đẽ, khiến người xem vô cùng thích thú.

Những cửa thành ấy đều có bảy lớp bình phong làm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, pha lê, đứng yên không lay động, trước khi mở hay đóng cửa, bức bình phong tỏa ra ánh sáng rực rỡ, dịu dàng dễ chịu. Các cửa thành này, bên ngoài trông thấy suốt từ xa. Như khi muốn mở thì có gió thổi cửa tự mở, lúc muốn đóng lại có gió thổi cửa tự đóng.

Bảy lớp bình phong này khi gió thổi mở ra, cửa cửa tương xứng đều trông thấy thông suốt lẫn nhau. Khi muốn đóng cửa gió thổi tự đóng, bảy bình phong tự khép kín trở lại.

Này A Nan, bên trong thành Diêm Phù Đàn này có một ao lớn tên là Hoan Hỷ. Ao này mặt Đông Tây rộng một do tuần, mặt Nam Bắc rộng nửa do tuần. 

Bốn bờ ao có bốn bức tường gạch chạy dài ngay thẳng, tường được tô điểm bằng bốn thứ báu: Vàng, bạc, pha lê, lưu ly đẹp đẽ, trông rất vừa ý.

Bốn mặt ao đều có đường đi được lát bằng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê và lưu ly, nền đường thẳng, phẳng, trông rất vừa ý.

Vàng ròng lót đường thì bạc trắng làm thềm bệ.

Bạc trắng lót đường thì vàng ròng làm thềm bệ.

Lưu ly lót đường thì pha lê làm thềm bệ.

Pha lê lót đường thì lưu ly làm thềm bệ.

Trên vệ đường đều có vọng gác cũng được trang hoàng bằng bảy thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách và lưu ly hết sức đẹp đẽ.

Bốn phía bờ ao đều có lan can, cũng dùng bốn thứ báu: Vàng ròng, bạc trắng, pha lê, lưu ly tổng hợp tạo thành, ngay ngắn chỉnh tề, hài hòa.

Mặt ao phía Đông, lan can làm bằng vàng ròng, mặt ao phía Nam lan can làm bằng bạc trắng, mặt ao phía Tây làm bằng lưu ly, mặt ao phía Bắc làm bằng pha lê.

Lan can làm bằng vàng ròng thì trụ làm bằng vàng ròng, bệ cửa sổ làm bằng bạc trắng.

Lan can làm bằng bạc trắng thì trụ làm bằng bạc trắng, bệ cửa sổ làm bằng vàng ròng.

Lan can làm bằng pha lê thì trụ làm bằng pha lê, bệ cửa sổ làm bằng lưu ly.

Lan can làm bằng lưu ly thì trụ làm bằng lưu ly, bệ cửa sổ làm bằng pha lê.

Này A Nan, ao Hoan Hỷ ấy có bảy hàng cây Đa La bao bọc chung quanh, khoảng giữa các cây đều có lưới bằng bảy báu trang nghiêm bủa giăng. Khoảng giữa nơi các lưới đều có treo chuông rung báu. Bên ngoài hàng cây Đa La có bảy lớp hào bao bọc, đều đặn, ngay ngắn.

Trong ao Hoan hỷ có các loài hoa: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn.

Trên bờ ao lại có các loài hoa sống trên đất, như: Hoa Chiêm Bà, hoa A Đa Mục Đa, hoa Bà Lợi Sư và hoa Kiền Đà Bà Lợi Sư.

Ao ấy chứa đầy nước có đủ tám đặc tính ưu việt, khi các loài chim khát nước, uống vào đều được bình yên. Đáy ao rải toàn cát vàng.

Lưới bằng bảy thứ báu phủ khắp trên mặt ao, từng mắc lưới mềm mại, đẹp đẽ này đều treo các chuông rung quý.

Này A Nan, thành Diêm Phù ấy, đường sá đều bằng phẳng, ngay thẳng, hai bên vệ đường đều có cây Đa La. nơi tàng cây Đa La xen lẫn lưới giăng, khoảng giữa các mắc lưới đều treo chuông rung bằng bảy báu.

Gió thoảng thổi động, các chuông rung bảy báu này phát ra âm thanh vi diệu khiến cho mọi người đều muốn nghe, tâm sinh hoan hỷ, giống như người đời trổi nhạc ngũ âm.

Này A Nan, tất cả dân chúng trong thành Diêm Phù này đều thuần lương, chánh trực, họ cùng thích vui đùa, không bao giờ tranh cãi. Nghe tiếng chuông reo bỗng nhiên hoan hỷ, ca múa vui chơi, lại không mơ tưởng về một âm nhạc nào khác.

Này A Nan, thành Diêm Phù ấy thường có nhiều thứ nhiều loại âm nhạc vi diệu, như là: Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng linh, tiếng ốc, tiếng đàn cầm, tiếng đàn sắt, đàn không hầu, tiếng còi, tiếng sáo, tiếng đàn Tỳ Bà, tiếng đàn tranh, tiếng địch, đại thể là tất cả những âm thanh như vậy.

Lại có vô lượng tiếng chim hót lảnh lót, như tiếng chim Sáo, chim Anh Võ, chim Khổng Tước, chim Câu Sí La, chim Mạng Mạng vô lượng vô biên các loài chim như thế, phát ra âm thanh lạ thường, không lúc nào ngừng nghỉ.

Trên mặt đất đều tung rải các thứ hoa đẹp, như là: Hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và loại hoa sen trắng lớn, cùng các loài hoa được trồng trên đất liền.

Này A Nan, trong thành ấy không có những việc bất như ý, bức xúc làm khổ não.

Tất cả tiện nghi đều đầy đủ, không có thiếu thôn, vật dụng dư giả, đồ ăn uống cũng vậy, đầy đủ các hương vị.

Mọi nơi chốn nhà cửa đều đông đúc, không bỏ đất hoang, dân chúng với cuộc sống thịnh vượng, oai đức hiện rõ.

Sự sinh hoạt trong thành này giống như thành A La Ca của Vua Tỳ Sa Môn ở phương Bắc không hơn không kém.

Này A Nan, trong thời gian này có một Đức Phật ra đời tên là Bảo Thể, đầy đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác Này A Nan, Đức Phật Bảo Thể trước khi chưa thành đạo, lúc còn là một vị Bồ Tát, thường thích tu hạnh thanh tịnh. Dân chúng trong thành này cũng ưa tu hạnh thanh tịnh.

Lúc đó, Đức Phật Bảo Thể ở ngoại ô thành Diêm Phù Đàn, vào một buổi sớm mai sắp vào xóm làng thôn ấp trong thành để khất thực, tức thì có ngàn vạn vô lượng Chư Thiên giáng hạ xuống chỗ Đức Như Lai Bảo Thể, vây quanh hộ vệ cúng dường.

Khi Đức Bảo Thể sắp vào thành, chân Ngài vừa bước đến cửa thành, thời dân chúng trong thành hết thảy đều nhờ oai lực thần thông của Chư Thiên hộ trì, cho nên họ đều phát tâm cúng dường Đức Phật Bảo Thể.

Nào quét dọn phẩn uế, rưới nước hoa và dùng hồ thơm tô trên mặt đất, trên mặt đường đầy những hoa quý, khắp mọi nơi đều đặt lư xông hương thượng diệu, đốt các thứ hương vô giá, các thứ cờ, lọng, phướn rợp cả mặt đường.

Vô lượng vật dụng cúng dường như vậy để cúng dường Đức Phật Bảo Thể.

Thuở ấy, có một chàng trai thôn quê ở ngoài thành cùng với một người trong thành sắp kết hôn.

Khi chàng ta vào thành, thấy quang cảnh thành ấp sao hôm nay trang nghiêm đẹp đẽ khác lạ, ít có trong đời, từ nhỏ đến giờ mắt chưa từng mục kích, trong tâm hết đỗi kinh ngạc, nên hỏi người trong thành: Thành này hôm nay tổ chức lễ hội gì?

Người trong thành trả lời cho kẻ thôn quê: Ở đây có Đức Như Lai xuất thế, tên là Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Trong chốc lát, Ngài sẽ vào thành khất thực.

Vì lý do đó nên đường sá trong thành đều được quét dọn rưới nước hoa, trang trí đẹp đẽ.

Họ lại còn trình bày rõ ràng cho chàng trai nông thôn này về công đức vô lượng vô biên của Như Lai, cũng tán dương công Đức Phật gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác lại ca ngợi công đức của pháp bảo và xưng tụng công đức của Tăng Bảo.

Chàng trai được nghe nói về công đức của tam Bảo, nên vui mừng vô lượng, bèn suy nghĩ: Đức Thế Tôn Bảo Thể Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác là Bậc ít thấy ở đời, ta nay nên đến chỗ Đức Phật ấy.

Suy nghĩ như vậy rồi, chàng trai liền cùng với những người nơi các xóm làng, thành ấp chen nhau đến chỗ Đức Phật Bảo Thể.

Khi đến nơi, lại suy nghĩ: Nếu Như Lai là Bậc nhất thiết trí tất biết được tâm ta, Ngài nên đối với ta Bày tỏ lời an ủi chỉ dạy trước.

Bấy giờ, Đức Phật Bảo Thể biết được tâm niệm của người nông thôn kia, nên trước nói lời an ủi, khiến người ấy vô cùng hoan hỷ.

Thỏa mãn được ý nguyện của mình, anh ta liền thỉnh Đức Như Lai qua ngày hôm sau xin cúng dường và Đức Phật đã im lặng nhận lời.

Người nông thôn ấy được Đức Như Lai nhận lời thỉnh cầu của mình nên rất vui vẻ, vội trở về nhà để sắm các thức ăn uống.

Lúc này, Trời Tứ Thiên Vương, Trời Phạm Vương và Đế Thích cùng đại chúng Chư Thiên, đem theo các thứ phẩm vật nơi Cõi Trời đến chỗ của Đức Như Lai dâng hiến, cúng dường.

Khi ấy người nông thôn về đến nhà, đếm đó lo sắm sửa các thức ăn uống cao lương mỹ vị.

Mọi thứ sắm đầy đủ rồi, vào sáng hôm sau, cho người quét dọn nhà cửa sạch sẽ, lấy hồ thơm tô lên mặt đất, lại dùng nước thơm rưới khắp mọi nơi, kế đến rải các thứ hoa tươi đẹp và trần thiết tòa ngồi, mọi việc chu toàn, liền cho người đi thỉnh Thế Tôn.

Người nhà đến bạch Phật: Bạch Đức Như Lai, đã đúng giờ, xin Ngài quang lâm đến tệ xá của chúng con.

Sáng sớm hôm ấy, Đức Phật Bảo Thể đắp y, mang bình bát, cùng một ngàn ức chúng Tỳ Kheo Thanh Văn, trước sau vây quanh cùng đến nhà thí chủ.

Đến nơi, chư vị Tỳ Kheo theo thứ lớp an tọa.

Thí chủ thấy Đức Thế Tôn cùng đại chúng an tọa xong xuôi, liền tự tay mình bưng lấy các thứ ăn uống thượng diệu dâng cúng Đức Như Lai và bạch: Bạch Đức Thế Tôn, cúi xin Phật và chư Tỳ Kheo tăng tùy ý thọ dụng.

Đến khi Đức Phật và đại chúng thọ trai xong, vật dụng cúng dường dùng không hết, người chủ thầm nghĩ: Thức ăn trăm vị này, Đức Phật và đại chúng dùng không hết, quyết định là do oai đức từ thần lực của Như Lai, khiến cho đồ ăn dư dật.

Đồ ăn còn lại quá nhiều, ta nay có thể mời số người đến chiêm ngưỡng Như Lai hiện có, thết đãi họ những thức ăn này, như vậy thì tâm ta mới hoàn toàn vui vẻ.

Rồi lại nghĩ tiếp: Pháp Phật không thể nghĩ bàn, thật ít có, ít có thay!

Nhờ đại lực từ oai thần của Đức Phật Bảo Thể, khiến cho quyến thuộc của ta không mời mà họ tự đến giúp đỡ.

Ta cũng chưa từng nhờ cậy một người nào, lại không tốn nhiều công sức, mà mọi sự việc cùng một lúc đều được chu toàn.

Khi Đức Phật Bảo Thể thọ trai xong, tùy theo căn cơ của thí chủ mà thuyết pháp, khiến người nghe hoan hỷ sinh tâm chưa từng có.

Đức Như Lai lại đưa người ấy hội nhập với chánh pháp, cả đại chúng nghe pháp thảy đều vui mừng, có người chứng được đạo quả. Rồi Đức Phật rời khỏi nhà trai chủ trở về Tinh Xá.

Khi người nông thôn, lãnh hội được giáo pháp rồi, tâm rất vui mừng, phát lời thề rộng lớn: Nguyện đời vị lai ta cũng giống như Đức Như Lai Bảo Thể, chứng đức đầy đủ tất cả pháp!

Lại nguyện: Ta ở trong đại chúng thuyết pháp như vậy, khiến cho thính giả nghe một cách hoan hỷ. Cũng như hôm nay, Đức Thế Tôn Bảo Thể giáo hóa chúng Tỳ Kheo an vui tu tập không khác.

Sau khi người nông thôn đem tâm chí thành tôn trọng cung kính cúng dường Như Lai rồi, theo Phật về Tinh Xá, cạo bỏ râu tóc xả tục xuất gia, được trao giới Tỳ Kheo.

Bấy giờ Đức Như Lai Bảo Thể vì chúng sinh trụ thế thuyết pháp, hạnh nguyện viên mãn mới nhập Niết Bàn.

Sau khi Phật vào Niết Bàn, vô lượng vô biên đại chúng Trời, người làm lễ Trà Tỳ thân Phật, lại đem vô lượng vật dụng quý giá đến chỗ hỏa táng thiết lễ cúng dường.

Lúc ấy, Tỳ Kheo nông thôn vừa nghe Như Lai nhập Niết Bàn, nên hết sức buồn rầu, thầm nghĩ: Ta nay phải đi đến chỗ làm lễ Trà Tỳ, hoặc đến đó sẽ được phép lạ chăng?

Thầy Tỳ Kheo ấy vội vã đến chỗ làm lễ Trà Tỳ, vừa đến nơi, liền được viên ngọc quý lạ, nhưng viên ngọc ấy không được sạch, vì bị bao phủ một ít bụi.

Bấy giờ Tỳ Kheo lau sơ viên ngọc thử xem, liền biết nó là viên ngọc chân lưu ly thanh tịnh, giá trị đến vài trăm ngàn lượng vàng.

Viên ngọc ma ni để chỗ nào thì ở đó ban đêm cũng sáng như ban ngày, tất cả phòng xá, đền đài đều được soi tỏ.

Lúc này Trời người thâu Xá Lợi của Phật rồi, xây Tháp phụng thờ.

Tỳ Kheo nông thôn thầm nghĩ: Ta nay nên dùng viên ngọc ma ni thay cho chiếc bình bằng ngọc, đem đặt trên đỉnh của Bảo Tháp.

Suy nghĩ như vậy rồi, khi đến Bảo Tháp, vị ấy lại nghĩ: Viên bảo châu Ma Ni của ta giá trị đến trăm ngàn lượng vàng, ta nay đem nó đặt trên Bảo Tháp, vì Đức Như Lai là bậc thầy tôn quý của ta.

Dù ánh sáng của viên ngọc ma ni tỏa chiếu trên ngọn Bảo Tháp vô lượng ngàn năm, mà vị Tỳ Kheo đó lại còn thắp sáng vô lượng ngọn đèn để tôn kính cúng dường Tháp báu đủ một ngàn năm.

Mãn thời gian ấy, tâm thường không lãng quên, luôn giữ chánh định niệm Phật.

Vị Tỳ Kheo do trì giới thanh tịnh, lại thêm cúng dường Bảo Tháp của Như Lai, nên sau khi mạng chung ở trong sinh tử, vô lượng vô biên trăm ngàn vạn kiếp thọ hưởng phước lạc Cõi Trời, người, chưa từng rơi vào đường ác.

Này A Nan, sau khi vị Tỳ Kheo ấy trải qua trăm ngàn vô lượng vô số A tăng kỳ kiếp, lại gặp một Đức Phật ra đời hiệu là Năng Tác Quang Minh Như Lai.

Vị Tỳ Kheo ấy cúng dường Đức Phật rồi xuất gia giữ gìn giới cấm, phạm hạnh thanh tịnh như trước.

Lại phát tâm: Nguyện nơi đời vị lai, nhờ công đức này, ta đời đời kiếp kiếp không sinh vào cõi ác.

Lúc đó, Đức Phật Năng Tác Quang Minh biết được sở nguyện của vị Tỳ Kheo kia, liền thọ ký: Này nhân giả, ông ở đời vị lai, trải qua trăm ngàn vô lượng vô số A tăng kỳ kiếp, sẽ thành Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, hiệu là Nhiên Đăng.

Đức Phật Nhiên Đăng khi còn là Bồ Tát, thân sau cùng sinh vào cung Trời Đâu Suất, giáng thần xuống nhân gian, nhập vào hông bên hữu nương gá mẫu thai, ở trong thai mười tháng, rồi nhất tâm chánh niệm, khi sắp đản sinh liền phóng hào quang chiếu sáng khắp cõi nước Phật.

Một hôm, sắp đến lúc đản sinh Bồ Tát, Thánh Mẫu thưa với Đại Vương: Xin Đại Vương biết cho, ý của thần thiếp muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn.

Nhà Vua nghe phu nhân nói như vậy, liền lệnh cho đại quan giữ nội thành, các trưởng giả hào phú, các thương gia và cư sĩ: Phu nhân ta ngày nay muốn ra lâm viên dạo chơi, thưởng ngoạn, ngay nơi tư gia các khanh đều trang hoàng nghiêm chỉnh, đường sá trong thành phải sạch sẽ, những nơi nào dơ nhớp hoặc sỏi gạch gồ ghề cần phải dọn sạch, dùng các thứ nước hoa, hồ thơm rưới tô khắp trên đường, và đem hoa thơm tươi đẹp rải khắp các nơi đó.

Mọi chốn đều đặt bình bằng ngọc, xông các thứ danh hương. Lại bày biện các bình ngọc đựng đầy nước thơm, trong bình cắm các thứ hoa quý, như hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn.

Không nơi nào là không trưng bày những cây chuối, tùy theo lớn nhỏ cao thấp, treo trên đó các cờ phướn đủ màu sắc, mỗi mỗi cây cờ, lá phướn đều tua tủa vô số mành lưới bằng bảy báu, chuỗi trân châu anh lạc, nơi từng mắt lưới đều có treo chuông rung bằng chất liệu quý như những vì sao xuất hiện vào ban đêm nơi Cõi Trời Tịnh Cư.

Lại khắp mọi nơi đều treo những tấm gương bằng ngọc sáng như vầng nhật nguyệt, hoặc giăng những rèm đủ màu sắc rực rỡ, hoặc vô số những dải lèo bằng vàng, bạc bủa giăng khắp.

Đường sá nơi thành này đều được trang hoàng với tất cả những thứ hết sức đẹp đẽ trang nghiêm như vậy, giống như thành Kiền Thát Bà của Thiên Thần.

Vương phu nhân ngồi trên kiệu báu, có kỹ nhạc mở đường âm thanh vang dội, cùng một ngàn tùy từng bao quanh hầu hạ trước sau chật ních cả lối đi.

Từ cung điện, Thánh Mẫu ung dung chậm rãi bước ra, đưa mắt quan sát bốn bề, oai đức tôn nghiêm, so trong hội không ai sánh bằng!

Đoàn người hướng về khu lâm viên, đến nói lại từ từ đi về phía sông. Lúc đến bên bờ liền xuống thuyền, thuyền lướt nhẹ tới giữa dòng, bỗng nhiên thấy một ngọn đèn sáng lớn, cao, rộng ngang dọc mười hai do tuần.

Trong ánh sáng ấy, thấy rõ một bãi cỏ gấu cao chừng bốn ngón tay, thân cỏ mềm mại màu trắng tươi, giống như lông chim Ca Da Lân Đề, tỏa ra mùi hương ngào ngạt dường như mùi hương hoa Chiêm Bà Ba Lợi Sư.

Trong lâm viên có nhiều loại cây quý nơi Cõi Trời, cõi người, những hoa lạ trái ngon đua nhau đơm, kết đầy khắp.

Lúc ấy, Bồ Tát Thánh Mẫu ngửa mặt nhìn lên hư không, từ từ đưa tay phải vói lấy cành cây, cành ấy tự nhiên rũ xuống, vương phu nhân liền dùng tay nắm lấy, ngay lúc đó ngang hông bên phải đản sinh một vị Đồng Tử, dung mạo khả ái, quý danh là Nhiên Đăng.

Khi Đồng Tử Nhiên Đăng đản sinh, Ngài tự nhiên chắp tay, hào quang sáng chói chiếu khắp cõi nước Phật này.

Trên Trời Chư Thiên rải vô lượng các loại hoa để cúng dường, như hoa Mạn Đà La, hoa Ma Ha Mạn Đà La, hoa Mạn Thù Sa, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa, hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen trắng và hoa sen trắng lớn.

Lại tung rải vô lượng bột hương Chiên Đàn, đầy khắp chu vi mười hai do tuần, cùng thả xuống vô số nhạc khí của Chư Thiên, không người sử dụng mà tự nhiên phát ra vô lượng âm thanh ca nhạc, tán thán.

Lồng trong âm thanh này có tiếng nói: Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Làm ngọn đèn sáng vô lượng! Thích hợp với tên tốt của Bồ Tát này, nên gọi là Nhiên Đăng.

Đức Đại Sĩ Nhiên Đăng các căn hoàn hảo, đầy đủ tướng tốt, không hề suy giảm, xấu xí.

Trải qua ngày tháng đến tuổi trưởng thành, Đồng Tử ở nơi lầu son thọ hưởng mọi thú vui của năm dục, chợt sinh ý nghĩ: Cảnh ái dục của thế gian có tính chất hư huyễn, tạm thời, thay đổi trong chốc lát, chẳng bao lâu sẽ hoại diệt.

Suy nghĩ như vậy rồi, liền xa rời cung điện, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, sống cuộc đời xuất gia.

Sau khi Ngài xuất gia cầu đạo Bồ Đề, đến ngồi bên gốc cây lần lần tu tập Chánh Giác.

Chứng quả Chánh Giác rồi, Ngài dùng Phật nhãn quán sát tất cả thế gian, liền khởi suy niệm: Có ai là người đầu tiên đến nghe chánh pháp. Ngài thấy thế gian không có người để giáo hóa. Lại quán sát đến lần thứ ba, cũng thấy thế gian không có người nghe pháp và người để được hóa độ.

Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế trải qua ba ngàn năm, độc nhất không có pháp lữ, sau khi trải qua ba ngàn năm Tọa Thiền, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thầm nghĩ: Các chúng sinh này mãi tham đắm nơi năm dục, luôn phóng dật, đam mê không biết nhàm chán, ta nay phải dốc sức giáo hóa khiến họ thức tỉnh.

Suy nghĩ như vậy rồi, từ thành Đăng chú, Ngài bay lên trụ trong hư không, hóa hiện một thành tên là Diêm Phù Đàn, Trong thành, Ngài biến hóa ra những ngôi nhà bằng lưu ly, bên ngoài thành hiện bảy lớp hàng cây Đa La bằng bảy báu.

Sự câu trúc của hóa thành cũng dùng bảy thứ báu để trang nghiêm như nói ở trên.

Thành này ngang dọc đông tây nam bắc đều năm ngàn do tuần, vật dụng trang hoàng trong thành giống như Cõi Trời Đao Lợi.

Dân chúng ở đây tuổi thọ đến ba ngàn năm. Tất cả chúng sinh nơi cõi Diêm Phù Đề, từ xa trông thấy dân chúng nơi cõi hóa thành kia thọ hưởng hoan lạc, mặc tình buông lung theo thú vui năm dục.

Những gì chúng sinh nơi cõi Diêm Phù Đề thấy, nghe, hiểu biết về thành kia, thảy đều tỏ ra ham thích.

Đức Phật Nhiên Đăng trải qua ba ngàn năm như vậy, Ngài lại suy nghĩ: Ta nay có thể dùng thần thông biến hóa khiến cho người cõi Diêm Phù Đề sinh tâm nhàm chán cảnh năm dục.

Ngay khi đó, tất cả dân chúng ở hóa thành bỗng thấy bốn mặt thành lửa bốc cháy ngùn ngụt, trong lòng kinh hãi, lo sợ tìm nơi ẩn náu, lại không có người giúp đỡ, muốn tìm đường trốn thoát mà không ai che chở.

Cũng vào lúc này, chúng sinh cõi Diêm Phù Đề lại thấy bốn bức tường của hóa thành nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự phát hỏa cháy ngùn ngụt, họ càng lo sợ cùng bảo nhau: Ôi thôi! Thành kia tự nhiên lửa bốc cháy cùng khắp mọi nơi, chẳng mấy chốc sẽ bị tiêu diệt.

Nói xong, họ lại nguyện: Nguyện hóa thành kia giáng hạ xuống nơi đây, hoặc thành này dời đến hóa thành kia, để chúng ta dập tắt những ngọn lửa đó.

Khi ấy, tất cả chúng sinh cõi Diêm Phù Đề căn cơ đã thuần thục, đúng lúc được Đức Phật Giáo hóa, nên ngay lúc ấy, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Nhân và Phi Nhân v.v... xuất hiện nơi hóa thành, bảo dân chúng Diêm Phù Đề: Tại sao hóa thành này tự nhiên bốc cháy?

Cùng lúc đó, trước mặt hóa thành bỗng nhiên xuất hiện ba cầu thang: Cầu thang thứ nhất bằng vàng, cầu thang thứ hai bằng bạc và cầu thang thứ ba bằng pha lê.

Khoảng giữa hai cầu thang có xen lẫn những hàng cây Đa La bằng ngọc quý.

Những cây Đa La này phát ra những âm thanh vang dội: Này các người, tất cả hãy mau tập trung về một chỗ.

Nếu tâm các người muốn thấy Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, Ngài chẳng bao lâu sẽ giáng xuống cõi Diêm Phù Đề.

Lúc này, tất cả dân chúng của cõi Diêm Phù Đề đều tập họp nơi cầu thang, thấy Đức Phật Nhiên Đăng từ trong hóa thành tiến ra bước xuống cầu thang.

Khi ấy Tứ Thiên Vương, Phạm Vương, Đế Thích vây quanh hộ vệ trước sau.

Chúng sinh nơi cõi Diêm Phù Đề được thấy Đức Phật Nhiên Đăng thảy hết sức hoan hỷ, mỗi người đều thầm nghĩ: Trước kia chúng ta mong muốn được thấy Như Lai, ngày nay chúng ta đã được chiêm ngưỡng.

Họ lại sinh tâm niệm: Nếu chúng ta đến trước Đức Phật thưa hỏi việc này: Hóa thành kia vì cớ gì lửa bốc cháy như vậy?

Đức Như Lai chắc chắn sẽ vì chúng ta mà giải thích.

Khi Đức Phật đã bước chân xuống đất, tất cả dân chúng cõi Diêm Phù Đề mỗi người đều nghĩ:

Riêng ta đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật và tự nói: Ta là người trước tiên đảnh lễ nơi chân Phật.

Đức Phật Nhiên Đăng an tọa nơi Tòa Sư Tử xong xuôi, liền vì chúng sinh thuyết pháp.

Ca ngợi pháp bố thí, trì giới, ly dục để được chứng pháp dứt sạch các lậu tận, nói về lợi ích của công đức xuất gia, giảng giải ba mươi bảy pháp trợ đạo thanh tịnh.

Đức Như Lai thấy dân chúng cõi Diêm Phù Đề này nghe Phật thuyết pháp tin tưởng vui mừng, thọ lãnh, tâm sinh hoan hỷ, tâm ý thuận hòa không có chướng ngại.

Đức Như Lai lại vì họ mà giảng nói các pháp, như tiền thân của Đức Phật. Ngài thuyết pháp hợp với căn cơ của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ.

Những pháp đó là: Khổ, tập, diệt, đạo. Ngày nay, Đức Thế Tôn cũng lại vì chúng sinh cõi Diêm Phù Đề mà thuyết giảng đầy đủ bốn chân lý này.

Thuở đó, Đức Phật Nhiên Đăng thuyết pháp, ngày đầu tiên giáo hóa độ thoát sáu trăm ức người, đều trừ hết các lậu dứt sạch phiền não, chứng quả  A La Hán, tâm được tự tại.

Ngày thứ hai giáo hóa năm trăm ức người, ngày thứ ba giáo hóa bốn trăm ức người, ngày thứ tư giáo hóa ba trăm ức người, ngày thứ năm giáo hóa hai trăm ức người, ngày thứ sáu giáo hóa một trăm ức người, ngày thứ bảy giáo hóa năm mươi ức người, tất cả đều chứng đạo quả A La Hán.

Cho đến trong tuần lễ thứ hai, Ngài giáo hóa độ thoát một trăm ức người, cuối cùng, trong tuần lễ thứ ba lại độ được bảy mươi lăm ức chúng sinh, tất cả đều được lợi ích, tâm ý sáng suốt, diệt sạch phiền não, thành bậc A La Hán.

Đức Phật Nhiên Đăng trụ thế một kiếp cùng với chư vị đệ tử Thanh Văn, vì chúng sinh nơi thế gian làm những điều lợi ích.

Này A Nan, Chư Phật theo thứ lớp thọ ký cho nhau. Đức Phật Nhiên Đăng ban đầu trồng các thiện căn, cầu quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, cho đến chuyển pháp luân, vì giáo hóa chúng sinh nên trụ thế một kiếp.

Này A Nan, lúc Đức Phật Nhiên Đăng còn là vị Bồ Tát, ở trên thuyền tuy thọ nhận thú vui năm dục, nhưng ở trong thế gian luôn sinh tâm nhàm chán, suy nghĩ như thế, lại cũng phát tâm: Ta có thể ngồi trên thuyền để vượt qua sông, đến bờ bên kia. Ngay khi đó, liền hiện ra một đóa hoa sen xanh thật lớn, Đồng Tử Nhiên Đăng bước vào trong hoa này, ngồi kiết già, hoa sen tự nhiên khép kín thành đóa hoa sen búp.

Lúc ấy đám thể nữ tìm kiếm không biết Đồng Tử ở đâu, liền về tâu lại với Đại Vương.

Nhà Vua cho người đi tìm khắp bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc đều không biết Đồng Tử ở chỗ nào. Cho đến tìm bốn phương phụ cũng không rõ là ở đâu.

Bồ Tát Nhiên Đăng do sức thần thông nên có oai đức lớn, ngồi kiết già trong hoa sen trên thuyền mà mọi người không thấy, khi ấy chứng được năm thần thông, phi hành nơi hư không, cho đến khi ngồi bên cội cây Bồ Đề chứng quả nhất thiết trí, rồi chuyển pháp luân, độ thoát được sáu mươi tám ức trăm ngàn người, thảy đều ở nơi thế gian giáo hóa chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở thành Xá Vệ bảo Tôn Giả A Nan: Này A Nan, Chư Phật và Bồ Tát ngày đêm thường nói: Tất cả các pháp có bốn thứ thâu tóm để nhiếp hóa chúng sinh.

Bốn pháp thâu nhiếp đó là gì?

Một là bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi ích và bốn là đồng sự.

Tôn Giả A Nan bèn rời tòa ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch áo vai bên hữu, đầu gối hữu quỳ sát đất chắp tay bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, thuở xưa Ngài cúng dường bao nhiêu Đức Phật để cầu đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác?

Ngài ở nơi Đức Phật nào vun trồng các thiện căn, vì đời vị lai cầu đạo Bồ Đề?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Hãy chú ý lắng nghe, khéo suy nghĩ ghi nhớ, ta nay sẽ vì ông kể các danh hiệu Chư Phật mà ta đã từng vun trồng thiện căn trong quá khứ: Này A Nan, ta nhớ thuở xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng, Chánh Giác. Nơi Đức Phật này, ta trồng thiện căn, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Thế Vô Tỷ.

Lúc ấy ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Liên Hoa Thượng.

Lúc đó ta trồng các thiện căn, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Tối Thượng Hành.

Lúc đó ta trồng các thiện căn nơi Đức Phật ấy, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời, hiệu là Đức Thượng Danh Xưng.

Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

Ta lúc đó trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Đế Sa.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Phất Sa.

Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Kiến Nhất Thiết Lợi.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Thi Khí.

Ta lúc ấy trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Tỳ Sa Môn.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn và cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Câu Na Hàm Mâu Ni.

Ta lúc ấy trồng các thiện căn, dốc tu tập phạm hạnh, cùng cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác. Có một Đức Phật ra đời hiệu là Ca Diếp.

Ta bấy giờ trồng các thiện căn cho đến dốc tu tập phạm hạnh, cúng dường Đức Phật, cầu ở đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Này A Nan, ta ở luôn trú nơi xứ của Bồ Tát Di Lặc trồng các thiện căn, cầu vào đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Rồi nói kệ:

Chư Phật oai đức lớn,

Lìa dục chứng Niết Bàn.

Phật Thích Ca Mâu Ni

Cúng dường khắp tất cả.

Bấy giờ Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, Như Lai cúng dường chư vị Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng, Chánh Giác đó, đã đem những gì để cúng dường và trồng những thiện căn gì để cầu vào đời vị lai thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ta nhớ về đời quá khứ trải qua vô lượng kiếp có vị Quốc Vương tên là Hàng Oán, thuộc dòng Sát Đế Lợi thừa kế ngôi vị Đế Vương. Nhà Vua đầy đủ phước đức, tuổi thọ rất lâu, dung mạo đoan nghiêm, tiếng tốt vang khắp mọi nơi.

Này A Nan, Vua Hàng Oán đóng đô nơi một thành lớn tên là Liên Hoa.

Nhà Vua ở trong thành này cai trị dân chúng, xây dựng cung điện. Thành này mặt Đông, Tây rộng mười hai do tuần, mặt Nam, Bắc rộng bảy do tuần, đất đai phì nhiêu, mưa thuận gió hòa, lúa thóc dồi dào, không một ai nghèo khổ.

Dân cư đông đúc khắp chốn, không một nơi nào bỏ hoang. Vườn hoa, rừng cây hoa quả sum suê.

Mặt nước sông suối, ao hồ thường phẳng lặng. Hai bên đường, phố xá tấp nập, người buôn bán qua lại không ngớt.

Giống như thành A La Ca của Trời Tỳ Sa Môn ở phương Bắc, bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc của thành Liên Hoa này cũng dùng đủ các thứ trang nghiêm không khác.

Này A Nan, trong thành của Vua Hàng Oán có một vị Đại Bà La Môn thuộc loại hào phú, tên là Nhật Chủ, sức lực dũng mãnh cường tráng, của cải châu báu, rất nhiều tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, tất cả đều dư dật không thiếu món chi.

Trong kho tàng của ông ta toàn là các thứ vật báu đặc biệt như: Vàng ròng, bạc trắng, ngọc báu, trân châu, trân bảo, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, giống như Vua Tỳ Sa Môn ở phương Bắc.

Này A Nan, lúc ấy, Đại Bà La Môn Nhật Chủ đặc biệt được Nhà Vua đem tâm ái mộ, kết làm bạn thân, gắn bó mật thiết.

Này A Nan, một hôm, Vua Hàng Oán có một sự việc, đem giao cho Bà La Môn Nhật Chủ, ra lệnh phải giải quyết cho hợp lý.

Bà La Môn Nhật Chủ theo đúng như pháp giải quyết xong, lại hợp ý với Nhà Vua, nên đối với vị Bà La Môn ấy, Vua Hàng Oán càng sinh tâm hoan hỷ bội phần, chia đôi đất nước, phong cho Bà La Môn Nhật Chủ làm Vua một nửa kia để cai trị muôn dân.

Đại Vương Hàng Oán, lại còn xây dựng cho Vua Nhật Chủ một thành riêng tên là Diên Chủ.

Bốn mặt Đông, Tây, Nam, Bắc, đường sá, ngã tư, thành quách đều được trang hoàng đẹp đẽ giống y như thành Liên Hoa.

Này A Nan, Vua Nhật Chủ này có một phu nhân tên là Nguyệt Thượng.

Bồ Tát Nhiên Đăng khi rời Cõi Trời Đâu Suất giáng thần xuống cung Vua Nhật Chủ, nhập vào hông bên phải của phu nhân Nguyệt Thượng, khi ở trong thai vẫn thân ngồi yên ngay ngắn, kế đến là đản sinh, thành đạo, thuyết pháp giáo hóa muôn người, đều được chứng quả A La Hán. Nhân duyên như trên có nói trong Kinh Bản Hạnh phần Bồ Tát Nhiên Đăng.

Đức Phật Nhiên Đăng tuần tự du hóa qua lại trong hai thành này, thuyết pháp độ sinh.

Phụ Vương Nhật Chủ thường dùng bốn sự để cúng dường, luôn cung kính, tôn trọng Đức Phật, được Phật ca ngợi.

Này A Nan, sự việc dần dần truyền đến tai Vua Hàng Oán. Nhà Vua nghe nơi thành Diên Chủ, trong cung Vua Nhật Chủ, đại phi thứ nhất phu nhân Nguyệt Thượng vừa sinh một Đồng Tử tên là Nhiên Đăng, dung mạo tuấn tú, thân như vàng ròng, đầy đủ tướng tốt, thế gian không ai sánh bằng.

Đồng Tử được đem đến tướng sư Bà La Môn nổi tiếng trong nước để đoán xem tướng mạo như vậy thì về sau sẽ như thế nào?

Tướng Sư trả lời: Vị Đồng Tử này phước đức trang nghiêm, nếu ở tại gia sẽ là Chuyển Luân Thánh Vương làm chủ cõi Đại Địa thống lãnh bốn châu thiên hạ, đầy đủ bảy thứ báu:

Một là xe báu bằng vàng, hai là ngọc báu như ý, ba là ngọc nữ báu, bốn là voi báu, năm là ngựa báu, sáu là quan báu thống lãnh quân lính, và bảy là quan báu coi giữ kho tàng.

Lại có một ngàn Thái Tử tướng mạo đều đoan nghiêm, đầy đủ tướng trượng phu, có tài đánh đuổi giặc thù, oai thế vang khắp chốn, bốn biển núi rừng đâu đâu cũng hàng phục.

Quốc Gia an ninh, mưa thuận gió hòa, năm thứ lúa thóc tươi tốt, dân chúng an lạc, không có cảnh khổ não tật bệnh, không dụng binh chinh phạt, đem chánh pháp trị dân.

Còn nếu Đồng Tử xuất gia thì sẽ thành Phật đầy đủ mười hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, danh tiếng vang khắp mọi nơi.

Này A Nan, Đồng Tử Nhiên Đăng bỏ tục xuất gia, cho đến thành đạo Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và chuyển pháp luân danh tiếng vang khắp mọi nơi, đúng như lời tướng Sư đã tiên đoán.

Lúc ấy, Vua Hàng Oán thầm nghĩ: Đức Thế Tôn ít có! Rất khó có cơ duyên xuất hiện ở đời, lâu lâu mới nghe danh hiệu một lần, nhưng lại khó được chiêm ngưỡng.

Đại Vương Hàng Oán liền sai sứ mau đến kinh thành của Vua Nhật Chủ tỏ lời thế này:

Ta nay nghe lời khẩu truyền: Đại phu nhân của Nhà Vua sinh hạ được một Đồng Tử hết sức đoan nghiêm, đầy đủ các tướng tốt ta nay muốn thỉnh Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng, Chánh Giác đến thành Liên Hoa là Kinh Đô của ta, để thọ dụng phẩm vật cúng dường.

Nếu Nhà Vua đồng ý để Đức Phật đến thì cả hai nước đều được lợi ích. Còn như không thuận theo yêu cầu này thì ta sẽ cử bốn binh chủng trang bị đầy đủ đến chinh phạt.

Sứ giả nhận sắc lệnh như vậy rồi, liền đi đến thành Diên Chủ là Kinh Đô của Vua Nhật Chủ, tâu lên Nhà Vua đầy đủ những lời như vậy.

Vua Nhật Chủ vừa nghe qua lời tâu này, lòng ưu sầu tấm tức, trong dạ mang lấy sự việc chẳng vui.

Nhà Vua liền triệu tập Quần Thần, đối trước bá quan trình bày đầy đủ sự việc.

Đại Vương Hàng Oán có ý như vậy, các khanh suy nghĩ là ta nên phúc đáp như thế nào?

Quần Thần đồng tâu Vua Nhật Chủ: Đại Vương nên biết, đối với sự việc ấy, chúng ta nên đến thưa hỏi Đức Phật Nhiên Đăng xem thử Ngài dạy ra sao.

Vì Đức Nhiên Đăng Như Lai Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng, Chánh Giác luôn sẵn lòng đại từ bi.

Vua Nhật Chủ bảo Quần Thần: Ta cũng có suy nghĩ như vậy. Liền khi ấy Nhà Vua cùng Quần Thần đích thân đến nơi Đức Phật Nhiên Đăng đang ngự thưa hỏi sự việc.

Đức Phật an ủi Nhà Vua: Phụ Vương an tâm, chớ nên kinh hãi sợ sệt, chẳng nên sinh tâm ưu sầu.

Vì sao?

Ta nay cũng sắp du hóa đến nước đó để hóa độ dân chúng, vì Thế Tôn thương xót tất cả chúng sinh.

Lúc ấy, Đức Phật Nhiên Đăng Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng, Chánh Giác cùng vô lượng vô số trăm ngàn chúng Tỳ Kheo tùy tùng đồng du hành đến nước Vua Hàng Oán để hóa độ chúng sinh.

Trước khi Đức Phật du hóa, Vua Nhật Chủ cúng dường cung cấp Đức Như Lai Nhiên Đăng, bốn sự cúng dường đầy đủ không có thiếu hụt, rồi đi theo sau tiễn đưa Đức Phật đến tận biên giới của mình.

Nhà Vua nhiễu quanh ba vòng đảnh lễ dưới chân Phật, bùi ngùi rơi lệ trở về Hoàng Cung.

Lúc nghe tin Đức Phật Nhiên Đăng cùng vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ Kheo Thanh Văn, đều là bậc A La Hán đồng đến thành Liên Hoa, Vua Hàng Oán rất đỗi vui mừng, ra lệnh sửa sang đường sá nghiêm chỉnh, nơi nào nhơ bẩn đều được tẩy trừ, trưng bày bố trí nghiêm trang, cho đến mọi thứ đều như thành Càn Thát Bà.

Vua Hàng Oán ban sắc lệnh, loan báo cho tất cả dân chúng trong thành và cách ngoài thành mười hai do tuần đều biết không được tự do buôn bán các thứ tràng hoa thơm, nơi nào có hoa để Nhà Vua mua lấy, sắp đem cúng dường Đức Phật Nhiên Đăng.

Lúc ấy Đại Vương Hàng Oán đem bốn đại hùng binh đầy đủ oai thế, xuất phát từ hoàng thành đi nghinh rước Đức Phật Nhiên Đăng.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần