Phật Thuyết Kinh Phật Bản Hạnh Tập - Phẩm Năm Mươi Tám - Phẩm Nhân Duyên Của Bà đề Lợi Ca - Phần Một

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Đa, Đời Tùy

 PHẬT THUYẾT

KINH PHẬT BẢN HẠNH TẬP

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Xà Na Quật Đa, Đời Tùy  

PHẨM NĂM MƯƠI TÁM

PHẨM NHÂN DUYÊN CỦA BÀ ĐỀ LỢI CA  

PHẦN MỘT  

Thuở nọ, Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa dòng họ Thích thấy năm trăm Đồng Tử họ Thích xả tục xuất gia, khởi lên ý nghĩ: Ta cũng có thể theo Thế Tôn xả tục xuất gia.

Nghĩ vậy rồi, Đồng Tử đến thưa cha mẹ: Lành thay! Thưa song thân Phụ Mẫu, con muốn phát tâm xuất gia theo Phật, cúi xin song thân cho phép.

Nghe nói như vậy, cha mẹ liền bảo Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa:

Cha mẹ nghĩ thế này: Cha mẹ phải nương vào con, con phải nương vào cha mẹ, nhưng con đã có ý định như vậy, thì tùy theo ý con muốn, cho phép con được xuất gia.

Khi ấy đang mặc y phục tuyệt đẹp vô giá, cỡi voi tốt, đi ra cửa thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô, Đề Bà Đạt Đa bị cái móc hai bên cửa, móc vào làm rách hết y phục.

Có một vị đại Bà La Môn hiểu rõ tướng số, ở gần bên thấy vậy, nên huyền ký cho Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa: Sự nghiệp xuất gia của Đồng Tử sẽ bất thành.

Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa ra khỏi thành, đi đến tòng lâm, lễ dưới chân Phật, đứng về một bên, bạch Phật: Cúi xin Thế Tôn cho con xuất gia. Bấy giờ Đức Thế Tôn chánh niệm quán sát sự nghiệp đời trước và đời sau của Đề Bà Đạt Đa để biết được tâm hạnh của Đồng Tử.

Đức Phật bảo Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, ông nên cẩn thận, không nên xả tục xuất gia, chỉ nên về nhà tu tập, đem của cải dùng vào việc bố thí, tạo các công đức, không nên xuất gia trong pháp của ta.

Khi ấy, bị Đức Phật quở trách, Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa đi đến Trưởng Lão Xá Lợi Phất, bạch: Thưa Thánh Giả Xá Lợi Phất, cho con được xuất gia.

Trưởng Lão Xá Lợi Phất hỏi Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, ông đã đến thưa với Đức Phật chưa?

Đề Bà Đạt Đa thưa: Con đã thưa với Đức Phật rồi.

Trưởng Lão Xá Lợi Phất hỏi: Này Đề Bà Đạt Đa, Đức Thế Tôn đã nói với ông thế nào?

Đề Bà Đạt Đa đáp:

Thưa Thánh Giả, Đức Phật nói thế này: Ông không nên xả tục xuất gia, nên ở nhà tu hạnh bố thí, tạo các công đức. Nếu xuất gia ở trong pháp của ta, ông sẽ không được lợi ích.

Bấy giờ Xá Lợi Phất mới nghĩ: Ngày nay Đức Thế Tôn đã không cho Đề Bà Đạt Đa xuất gia. Nếu ta cho xuất gia thì ta không đúng.

Nghĩ như vậy rồi, Ngài Xá Lợi Phất liền bảo Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, ông nên làm theo lời Thế Tôn dạy. Lúc ấy Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa bị Xá Lợi Phất khước từ, lại đi đến chỗ Trưởng Lão Mục Kiền Liên.

Đến nơi đảnh lễ, đứng lui về một bên, Đồng Tử bạch: Kính bạch Trưởng Lão Mục Kiền Liên, cúi xin Ngài cho con được xuất gia.

Mục Kiền Liên lại hỏi Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, ông đã đến thưa Đức Phật chưa?

Đề Bà Đạt Đa trả lời: Con đã đến thưa Đức Phật rồi.

Trưởng Lão Mục Kiền Liên lại bảo Đề Bà Đạt Đa: Đức Thế Tôn đã nói với ông những gì?

Đề Bà Đạt Đa đáp: Thế Tôn bảo con: Ông chớ nên bỏ tục xuất gia ở trong pháp của ta, nến sống tại gia đúng như pháp mà tu hành, dùng của cải bố thí, tạo các công đức. Chẳng nên xuất gia ở trong pháp của ta. Nếu xuất gia thì không lợi ích cho ông.

Bấy giờ Trưởng Lão Mục Kiền Liên cũng bảo Đề Bà Đạt Đa: Ông cần phải nghe lời Thế Tôn dạy, nên trở về nhà, cần phải làm những việc ấy.

Lúc ấy Đề Bà Đạt Đa cũng bị Mục Kiền Liên không cho xuất gia, lại đi đến chỗ Trưởng Lão Đại Ca Diếp Sơ lược như trên.

Kế tiếp, Đề Bà Đạt Đa đi đến chỗ Ngài Ca Chiên Diên, rồi đi đến chỗ Ngài Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp.

Kế tiếp đi đến Trưởng Lão chỗ Ngài Na Đề Ca Diếp.

Kế tiếp đi đến chỗ Trưởng Lão Ưu Ba Tư Na, cho đến chỗ của các Ngài Ma Ha Câu Hy La, Ma Ha Tôn Đà Ly Ba Đa đều không được cho xuất gia.

Đề Bà Đạt Đa đi đến chỗ Trưởng Lão Ưu Ba Ly Ba Đa, đảnh lễ dưới chân, đứng lùi về một bên.

Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa lại cầu Ưu Ba Ly Ba Đa xin xuất gia.

Trưởng Lão Ưu Ba Ly Ba Đa lại hỏi Đề Bà Đạt Đa: Ông đã đến chỗ Đức Phật chưa?

Đề Bà Đạt Đa đáp: Thưa Thánh Giả, trước đây con đã đến chỗ Đức Phật rồi.

Bấy giờ Trưởng Lão Ưu Ba Ly Ba Đa hỏi: Ông đã đến chỗ Đức Phật, Ngài đã dạy ông những gì?

Đề Bà Đạt Đa đáp: Thế Tôn bảo con không nên xả tục xuất gia, chỉ nên ở tại nhà y như pháp tu tập, dùng của cải bố thí, tạo các công đức, chẳng nên ở trong pháp của Ngài xuất gia. Nếu xuất gia thì con không được lợi ích.

Bấy giờ Trưởng Lão Ưu Ba Ly Ba Đa suy nghĩ: Nay Thế Tôn đã không cho Đồng Tử Đề Bà Đạt Đa xuất gia, nếu ta vội cho xuất gia thì ta không đúng.

Nghĩ như vậy rồi liền bảo Đề Bà Đạt Đa: Đồng Tử phải nghe lời Thế Tôn dạy, cần phải làm những việc như vậy.

Đề Bà Đạt Đa tuần tự đã đi đến chỗ các Tỳ Kheo Thượng Tọa, Đại Đức cầu xin xuất gia mà các vị Tỳ Kheo Thượng Tọa, Đại Đức đều nói với Đề Bà Đạt Đa: Đức Thế Tôn đã có lời dạy như vậy, Đồng Tử nên làm theo lời dạy đó. Bấy giờ Đề Bà Đạt Đa bị các Tỳ Kheo từ chối không cho xuất gia, nên cỡi voi trắng trở về thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô, sống lại cảnh Vương Cung.

Đồng Tử A Nan khi vừa thấy năm trăm Đồng Tử họ Thích đều được xuất gia, liền nghĩ thế này: Ngày nay ta phải xả tục xuất gia.

Nghĩ như vậy rồi đến thưa cha mẹ: Thưa cha mẹ, ý con ngày nay muốn xả tục theo Đức Phật xuất gia, cúi xin cha mẹ hoan hỷ cho con được toại nguyện. Mẹ A Nan vốn có tâm bất tịnh đối với Đức Phật.

Vì lý do gì bà ta có tâm như vậy?

Vì khi Đức Thế Tôn còn là Bồ Tát tại gia, bà ta thấy Bồ Tát có công đức oai lực sáng ngời, nên đối với Bồ Tát bà sinh nhiễm tâm, nói nhiều lời bất chánh.

Khi ấy Bồ Tát vì người thân của bà ấy là di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, nên đối với lời bất chánh ấy, Ngài im lặng không quan tâm. Vì bà không có tịnh tâm nên nhất định không cho A Nan xả tục xuất gia.

Khi nghe nói lại là A Nan muốn xuất gia, nhưng cha mẹ không cho, Đề Bà Đạt Đa đến nói với A Nan: Tâm Đồng Tử thật sự muốn xuất gia nhưng cha mẹ chưa cho phải không?

A Nan đáp lời Đề Bà Đạt Đa: Đúng như lời vương tử nói. Tôi không biết làm cách gì để cha mẹ cho phép xuất gia, được thọ giới làm Tỳ Kheo.

Đề Bà Đạt Đa nói với A Nan: Nếu sau này cha mẹ Đồng Tử cho Đồng Tử xuất gia thì nói cho ta biết, để cùng người đi xuất gia.

A Nan liền đáp: Như lời vương tử nói, tôi không dám thất hứa.

Bấy giờ A Nan nghĩ thế này: Cha mẹ ta chắc chắn không cho ta xuất gia.

Nghĩ như vậy rồi, liền ở trong nhà lấy năm trăm đồng tiền lén đi đến nước Tỳ Đề Da, nơi làng nọ có một Trưởng Giả, trước kia là bạn tốt của Phụ Vương, đem năm trăm tiền giao cho Trưởng Giả và dặn: Tôi đem số tiền này giao cho nhân giả để dùng vào việc ăn uống cho tôi. Khi nào muốn ăn thì tôi đi đến nhà nhân giả, lúc ấy đem tiền này mua đồ ăn cho tôi. Nhân giả cũng đừng hỏi tôi từ đâu đến. Khi tôi đến là nhân giả biết tôi cần thức ăn.

A Nan nói như vậy rồi, liền đi đến chỗ hoang vắng, thọ giới không nói, đi đứng nằm ngồi im lặng không nói. Mỗi khi cần thức ăn, A Nan đi đến nhà trưởng giá ngồi ăn uống im lặng.

Ăn uống xong rồi, im lặng ra về. Bấy giờ dân cư ở làng này thường thấy Đồng Tử Thích A Nan đi đứng nằm ngồi, tới lui im lặng.

Thấy vậy, họ mới hỏi A Nan: Nhân giả là ai?

Bấy giờ A Nan không đáp một lời, lại im lặng bỏ đi.

Khi ấy dân làng nói với nhau: Vị Tiên Nhân này có lẽ phát xuất từ nước Tỳ Đề Da. Vì vậy, họ đặt tên A Nan là Tiên Nhân nước Tỳ Đề Da.

Một hôm, cha mẹ A Nan nghe nói thế này: A Nan trốn khỏi thành Ca Tỳ La, đi đến xóm làng thuộc nước Tỳ Đề Da, thọ giới không nói, tu hạnh tiên, nay đã thành Tiên Nhân.

Nghe được tin này cha mẹ A Nan, liền sai sứ giả đến nói: Con ơi! Con ơi, nếu con quyết định không chịu ở nhà, chỉ muốn xuất gia thì nên theo Đồng Tử họ Thích mà xuất gia.

A Nan nghe vậy trở về nhà, rồi đến nói với Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, vương huynh phải biết, cha mẹ tôi đã cho tôi xuất gia rồi.

Đề Bà Đạt Đa lại hỏi A Nan: Ý vương tử nay muốn xuất gia với ai?

A Nan đáp: Nay ý tôi muốn theo Đức Phật xuất gia.

Đề Bà Đạt Đa lại nói: Ta trước đây đã đến Đức Phật cầu xin xuất gia, mà Ngài không cho ta xuất gia.

A Nan lại nói: Nên đến chỗ Thánh Giả Xá Lợi Phất cầu xin xuất gia.

Đề Bà Đạt Đa lại đáp: Trưởng Lão này cũng không cho ta xuất gia. Như vậy cho đến Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Đại Ca Chiên Diên, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Ưu Ba Tư Na, Ma Ha Câu Hy La, Ma Ha Chuyên Đà, Ưu Ba Ly Ba Đa, bao nhiêu chư vị Tỳ Kheo Thượng Tọa, Đại Đức như vậy đều không cho ta xuất gia.

A Nan lại hỏi Đề Bà Đạt Đa: Này Đề Bà Đạt Đa, như theo ý vương huynh thì nên đi đâu?

Đề Bà Đạt Đa đáp: Này A Nan, chúng ta nên đi đến chỗ nào mà không ai biết.

A Nan lại nói: Tôi cũng tùy theo ý của vương huynh. Mỗi gia đình họ Thích trong hoàng gia phải có một người xuất gia, nên có nhiều Đồng Tử họ Thích đầy oai thế xuất gia theo Phật.

Khi ấy tại thành Ca Tỳ La Bà Tô Đô có một gia đình họ Thích nọ chỉ có hai anh em. Người em tên là Ma Ni Lâu Đà bổn cũ gọi là A Ni Lâu Đà.

Người anh tên là Ma Ha Na Ma. Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đã nhiều kiếp trồng các căn lành, tu các hạnh giải thoát, dứt các phiền não, hướng về Niết Bàn, không muốn sinh trong các cõi hữu lậu, ở trong tam giới chỉ muốn diệt sạch các hoặc lậu.

Do vì trong quá khứ Đồng Tử chứa nhiều công đức nên ngày nay sinh trong nhà họ Thích. Từ khi Đồng Tử sinh trong nhà họ Thích ấy thì gia nghiệp của nhà này lần lần phát triển, như là của cải, vàng bạc, lúa gạo, chân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, các loại bích ngọc cho đến vàng bạc, nhân sự, Súc Sinh đều được đầy đủ, năm trăm thứ tài vật ẩn tàng dưới đất tự nhiên được xuất hiện.

Khi Đồng Tử nằm ngủ, nơi giường lại có Chư Thiên đem năm trăm trân bảo vô giá trải trên giường.

Quyến thuộc thấy những điều kỳ lạ như vậy nên cùng nhau bàn: Khi Đồng Tử này ngủ, có Chư Thiên đem vật báu vô giá trải trên giường. Vì vậy, chúng ta nên đặt tên Đồng Tử này là Ma Ni Lâu Đà.

Đồng Tử này khôi ngô dễ thương, người ta nhìn thấy không chán, làn da vàng tươi giống như vàng ròng, đầu tròn như chiếc lọng, mũi cao lớn đầy đặn giống như mũi chim Anh Võ, hai cánh tay duỗi dài quá gối, thân thể ngang dọc trên dưới cân phân, các căn hoàn hảo không khuyết.

Cha mẹ đặt riêng bốn bảo mẫu chăm sóc: Một bà bồng bế, một bà tắm rửa, một bà bú mớm và một bà dẫn dạo chơi. Bốn bảo mẫu này chăm nom nuôi dưỡng, Đồng Tử dần dần được lớn khôn, đã có hiểu biết.

Thấy Đồng Tử rong chơi đây đó, đã đến lúc có khả năng tiếp thu sự giáo dục nên cha mẹ dạy các kỹ nghệ để giao phó gia nghiệp.

Những môn đó là toán số, ấn ký, âm nhạc, ca vũ, trào phúng, hài hước, khôi hài, nhảy múa, duyên dáng, gọt sửa các ngọc ma ni, may cắt, nhuộm áo, pha chế các mùi thơm, tô vẽ hoa lá và chân dung.

Dạy các loại cờ vi kỳ, lục bát, xu bồ cùng các trò vui khác, dạy học văn chương, cỡi voi, cỡi ngựa và các loại xe. Nghệ thuật bắn tên, cử chỉ cúi xuống ngước lên, thu sức, ra sức, xoa bóp, dạy phép xua đuổi giặc loạn, điều voi lao nhanh, tu sửa hoa viên, cung cách đi đứng ra vào, biết rõ điềm tốt xấu, vi tế ẩn tàng.

Phá các quân trận, nắm tay người khác họ gỡ không ra, đứng yên trên đất người xô không lay động, chải đầu sửa tóc, cầm dao đẽo gọt, dùi thủng các vật, chẻ bửa gỗ đá, bắn đích không sai, bắn đúng các phần trên người trong chân lông sợi tóc.

Bắn cung nhanh như tiếng động, giương cung rất mạnh bao nhiêu nghề như vậy đều được am tường, thành tựu đầy đủ, không gì là không biết, ý chí sâu xa, tinh thần sáng suốt, tâm trí tuyệt vời, trí tuệ thông minh.

Sau đó, Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đi theo thân phụ kiểm tra nông nghiệp, cho đến việc mưu sinh. Khi đến đó, vì khát nước nên Đồng Tử đi đến bờ suối múc nước để uống, thì nước suối biến thành Cam Lộ Chư Thiên.

Thân phụ không biết, thấy vậy lập tức cản ngăn, kêu lên: Này con! Này con! Không nên uống nước đó, sợ e thân con chẳng an.

Khi Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đã nếm thử nước suối, thưa thân phụ: Cha ơi! Nước suối này rất ngon ngọt.

Vì thân phụ không tin nên Đồng Tử dùng tay bụm nước dâng cho cha và thưa: Nếu không tin, xin cha nếm thử nước này.

Vì vậy cha Đồng Tử nếm thử rồi nói: Con ơi! Con ơi, cha tuy sống ở Vương Cung nhưng chưa từng được uống nước ngon ngọt như vậy!

Nói lời ấy rồi, người cha rất vui mừng vì thấy việc chưa từng có, tự nói: Con ta thật kỳ lạ, có phước báu rất lớn. Từ khi sinh ra cho đến ngày nay, bao nhiêu nhu cầu ăn uống, sắc, hương, vị, xúc, mỗi khi người ta đem đến cho con ta đều biến thành tốt hơn gấp bội lần.

Bấy giờ người anh là Ma Ha Na Ma thấy thức ăn uống của em mình như vậy mới sinh tâm ganh tị nên nói: Vì sao những thức ăn ngon trong sạch thơm tho chỉ dành riêng cho em ấy mà chẳng cho mình?

Người mẹ nghe con lớn nói như vậy, liền bảo: Con ơi! Con ơi, con có biết chăng, từ trước đến giờ những thức ăn uống làm xong, đem cho Ma Ni Lâu Đà, thường thường biến ngon hơn gấp mười lần. Nhưng Ma Ha Na Ma vẫn nhất định không tin.

Lại một hôm nọ Ma Ni Lâu Đà dạo chơi trong lâm viên, sai người hầu về nhà lấy đồ ăn và bảo: Người đến chỗ mẹ ta nhận đồ ăn đem đến đây. Khi ấy mẹ Đồng Tử sắp đồ ăn trên mâm, rồi dùng lụa trắng phủ lên trên, sai người mang đến cho Đồng Tử Ma Ha Na Ma trước, rồi sau đó mới sai người mang đến cho Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà.

Khi mang thức ăn đến, Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà thấy màu sắc hương vị ngon hơn gấp bội phần, thức ăn trong các tô dĩa cũng tràn đầy.

Tuy sự việc như vậy, nhưng Ma Ha Na Ma vẫn không tin, lại nói: Tuy thức ăn từ nhà mang đến nhưng thức ăn ngon dở đầy vơi là do người nhà sắp xếp, ai biết được việc này?

Một lúc khác, Ma Ni Lâu Đà du ngoạn quang cảnh trong viên lâm, sai người hầu về thưa với mẹ mình: Xin mẹ cho người mang đồ ăn đến. Bấy giờ người mẹ lấy các bát dĩa không đặt trên mâm rồi dùng khăn phủ lên trên, cho người mang đến đứa con lớn xem trước, sau đó mới mang đến cho Ma Ni Lâu Đà.

Bà ta nói với Đồng Tử lớn: Con tự xem đó, hư thật thế nào?

Ma Ha Na Ma nghe nói như vậy, liền đi theo chiếc mâm đến chỗ Ma Ni Lâu Đà, thấy bát dĩa trong mâm chứa đầy đồ ăn màu sắc hương vị thơm ngon.

Khi thấy việc như vậy Đồng Tử Ma Ha Na Ma, rất vui mừng, thốt lên thế này: Kỳ lạ thay! Chưa từng thấy! Em ta có phước đức lớn như vậy!

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà qua thời gian khôn lớn, sức lực tráng kiện, cha mẹ vì Đồng Tử xây ba tòa nhà. Tòa thứ nhất dùng vào mùa Đông, tòa thứ hai dùng vào mùa Xuân Thu và tòa thứ ba dùng vào mùa Hè.

Tòa nhà ở vào mùa Đông thì hoàn toàn ấm áp. Tòa nhà ở vào mùa Hè thì hoàn toàn mát mẻ và tòa nhà ở vào mùa Xuân và Thu thì nhiệt độ ôn hòa hợp ý.

Chỗ ở của Đồng Tử không có một người đàn ông nào khác, duy nhất một mình Đồng Tử, tự ý đi lại thọ hưởng đủ thứ vui ngũ dục.

Bấy giờ Đồng Tử Ma Ha Na Ma suy nghĩ: Ngày nay các Đồng Tử họ Thích đều có thế lực lớn, mỗi gia đình phải có một người đi xuất gia mà gia đình ta chưa có người đi xuất gia. Vậy ta nên xả tục xuất gia. Nếu không thì phải bảo em ta Ma Ni Lâu Đà xuất gia.

Ma Ha Na Ma nghĩ như vậy rồi, liền đi đến nói với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Ma Ni Lâu Đà, các gia đình thuộc họ Thích có đầy thế lực, mỗi nhà phải có một người xuất gia, mà trong nhà chúng ta chưa có ai xuất gia. Anh suy nghĩ là hoặc em hoặc anh phải có một người xuất gia.

Bấy giờ Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà thưa với anh Ma Ha Na Ma: Anh hãy xuất gia, em không thể xuất gia.

Ma Ha Na Ma lại nói: Này Ma Ni Lâu Đà, nếu như vậy, anh sẽ giao phó gia nghiệp cho em. Phàm nguyên tắc canh tác, trước phải cày đất, sau đó ban cho bằng, kế đến dọn sạch cỏ cây gạch đá, rồi mới gieo giống.

Sau khi gieo giống, nếu Trời không mưa phải tùy thời tiết mà tưới nước. Em phải theo phương pháp cày bừa trồng tỉa thật kỹ và đợi thu hoạch. Sau đó, dọn sạch cỏ rác chôn lấp dưới đất và đem phần thu gặt cất vào kho.

Làm như vậy rồi, cho đến năm sau cũng như thế, từ năm này sang năm khác cứ theo thứ lớp như vậy mà làm, không được dừng nghỉ.

Bấy giờ Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà thưa với Ma Ha Na Ma: Như vậy thì em ở nhà làm các công việc không ngớt, cũng không có thời gian nghỉ ngơi.

Làm việc như vậy, không có ngày hoàn tất thì thời gian nào em được ở nơi ba tòa nhà hưởng thụ thú vui ngũ dục?

Đồng Tử Ma Ha Na Ma lại bảo Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này em, việc làm ấy quả thật không có ngày xong, cũng không có thời gian chấm dứt. Cha mẹ chúng ta dành dụm của cải ông bà để lại, nên làm việc cũng như vậy, công việc chưa xong mà đã kết liễu cuộc đời.

Bấy giờ Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà nói với anh Ma Ha Na Ma: Nếu biết được việc làm không bao giờ xong, không có ngày chấm dứt, cha mẹ mình đã ham tiếc sự nghiệp Tổ Tiên, làm lụng không có thời gian thôi nghỉ mà đã bỏ thân mạng thì cũng không nên ở. Em nghĩ anh phải ở lại nhà kinh doanh sự nghiệp, để em xả tục xuất gia tu tập.

Lúc ấy Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà đến thưa cha mẹ: Kính thưa song thân, con nay muốn xả tục xuất gia, đến thỉnh ý cha mẹ cho phép con được xả tục xuất gia, đến tu học với Như Lai.

Bấy giờ cha mẹ bảo Ma Ni Lâu Đà: Con phải biết, cha mẹ chỉ có hai con, nên đối với hai con cha mẹ rất yêu quý, không muốn xa lìa. Nếu xa lìa trong giây lát thì cha mẹ ưu sầu khổ não. Giả sử ta có chết rồi, vẫn mong muốn không xa lìa hai con.

Huống chi ngày nay cha mẹ còn sống mà lại cho con đi xuất gia hay sao!

Cứ như vậy, Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà xin đến lần thứ hai, rồi đến lần thứ ba, thưa: Con muốn xả tục xuất gia ở trong giáo pháp của Như Lai. Cúi xin cha mẹ cho phép.

Thuở trước, khi Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia tu phạm hạnh thì Đại Vương Thâu Đầu Đàn vì Bồ Tát mà ưu sầu khổ não, bức xúc nên triệu tập hoàng gia, tuyên bố: Này các quyến thuộc, quý vị phải biết, nay Thái Tử Tất Đạt Đa con ta đã xuất gia rồi, ta không muốn ở ngôi Vua, lại cũng không muốn đội mão Thiên quan. Trong hoàng gia, vị nào có thể nhận lãnh ngôi Vua, ta sẽ làm lễ quán đảnh trao mão Thiên quan truyền ngôi cho.

Bấy giờ trong hội có Đồng Tử Bà Đề Lợi Ca, con của bà Hắc Cù Đà Di, tâu Vua: Tâu Đại Vương, hạ thần có thể nhận ngôi Vua và Thiên Quan. Lúc ấy Vua Thâu Đầu Đàn và tất cả hoàng gia họ Thích liền làm lễ quán đảnh trao Thiên quan truyền ngôi Vua cho Đồng Tử Bà Đề Lợi Ca.

Từ đó về sau, Bà Đề Lợi Ca họ Thích làm Vua, quyến thuộc gọi là Vua Thích Bà Đề Lợi Ca. Vua Thích Bà Đề Lợi Ca làm Vua trải qua mười hai năm, đúng như pháp trị hóa dân chúng.

Quyến thuộc hoàng tộc họ Thích vốn trước đó có lập lời cam kết: Nếu người nào nhận được Thiên quan làm Vua thì vị ấy phải vì tất cả quyến thuộc họ Thích mà thết đãi bữa tiệc sơn hào hải vị đủ trăm thức ăn uống.

Vua Thích Bà Đề Lợi Ca với Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà khi xưa còn thời thơ ấu vọc đất chơi với nhau, kết làm bạn bè, nên nay nhà Vua thiết hội, ra lệnh Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Đồng Tử, anh giúp đỡ ta thết đãi quyến thuộc trước, xong rồi ta với anh cùng ăn.

Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà tâu Vua Thích Bà Đề Lợi Ca: Y theo lệnh Đại Vương, thần không dám trái lời. Khi nhà Vua cùng với Đồng Tử lo thết đãi quyến thuộc xong, sau đó mới cùng ăn. Ăn xong, nhà Vua mời Đồng Tử lưu lại nghỉ tại Hoàng Cung.

Đêm ấy sắp qua, Trời gần sáng, Vua Thích Bà Đề Lợi Ca đến vấn an Đồng Tử Ma Ni Lâu Đà: Này Đồng Tử, đêm rồi có ngủ ngon không?

Ma Ni Lâu Đà đáp: Thưa Đại Vương, đêm qua tôi ngủ không ngon.

Nhà Vua hỏi: Lý do gì khanh ngủ không ngon?

Ma Ni Lâu Đà đáp: Đêm rồi tôi bị đau bụng và nóng lạnh.

Nhà Vua hỏi: Lý do gì đau bụng và nóng lạnh?

Ma Ni Lâu Đà lại đáp: Thưa Đại Vương, thức ăn uống ngày hôm qua gia vị không thích hợp, do vậy hiện giờ tôi còn đau bụng. Lại chiếc chăn đắp này, khi xưa thợ dệt dệt chăn, thân họ bị nóng lạnh nên tôi cũng mắc bệnh nóng lạnh.

Bấy giờ Vua Thích Bà Đề Lợi Ca kêu người đầu bếp hỏi: Khanh vừa rồi làm món ăn trăm vị là có quá nhiều hay quá ít hay là vừa phải?

Người đầu bếp tâu: Thưa Đại Vương, đúng như vậy, đúng như vậy!

Khi hạ thần làm thức ăn, có vị hơi nhiều, có vị hơi ít.

Vì khi ấy hạ thần bận rộn không được như ý, lo đi kiểm tra nhiều việc.

Lại người phụ tá không biết xử dụng nên gia vị đều bị lầm lộn.

Vua Thích Bà Đề Lợi Ca lại cho người đòi thợ dệt chăn đến hỏi: Khi khanh vì ta dệt chiếc chăn này, vì sao không chuyên tâm?

Thợ dệt đáp: Tâu Đại Vương, đúng như lời Ngài nói. Khi hạ thần dệt tấm chăn đó thân thể bị bệnh nóng lạnh, mà Đại Vương lại sai sứ giả đến thôi thúc. Lúc ấy hạ thần chưa hết nóng lạnh, sợ Đại Vương tức giận nên hạ thần dệt vội đưa cho sứ giả, cho nên tấm chăn không được tinh xảo.

*** 

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần