Phật Thuyết Kinh Tam Muội Ngồi Thiền - Phần Năm - Pháp Môn Trị ðẳng Phần - Tập Ba

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:18 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần

PHẬT THUYẾT

KINH TAM MUỘI NGỒI THIỀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần  

PHẦN NĂM

PHÁP MÔN TRỊ ÐẲNG PHẦN  

TẬP BA  

Người hay hành từ, hàng phục diệt trừ các ác, Chư Thiên Thiện Thần thường theo ủng hộ.

Hỏi: Nếu khi hành giả đắc từ tam muội, làm thế nào để không mất mà còn tăng trưởng?

Ðáp: Học giới thanh tịnh, tin chắc vào niềm vui, học các thiền định, nhất tâm trí tuệ, ưa nơi thanh vắng, thường không phóng dật, ít muốn, biết đủ, thực hành theo từ, tiết chế thân, ăn ít, bớt ngủ, đầu đêm cuối đêm tư duy không bê trễ.

Dè dặt lời nói, lặng lẽ giữ an tịnh, ngồi nằm đi đứng biết thời uyển chuyển, không cho thái quá đưa đến khổ nhọc, điều hòa nóng lạnh không để sanh phiền não. Ðó là tăng ích cho từ. Lại nữa, lấy niềm vui của Phật Đạo, niềm vui của Niết Bàn ban cho mọi người, gọi đó là đại từ.

Hành giả tư duy: Hiện tại, vị lai Bồ Tát hành từ lợi ích tất cả, ta cũng được cứu giúp. Ðó là vị Thần hiền lành giúp ta. Ta sẽ hành từ để báo đáp ân ấy.

Lại nghĩ: Tâm từ của Bồ Tát thường nghĩ đến tất cả, lấy đó làm vui. Ta cũng sẽ như vậy, nghĩ đến chúng sanh ấy khiến được niềm vui của Phật, là niềm vui của Niết Bàn. Ðó là báo ân.

Lại nữa, từ lực hay khiến tất cả tâm được vui thích. Thân lìa sự thiêu đốt của phiền não mà được cái vui mát mẻ, giữ gìn thực hành phước của từ, nghĩ đến sự an ổn của tất cả để báo đáp ân ấy.

Lại nữa, từ có những thiện lợi: Đoạn trừ sân hận, mở cửa tiếng tốt, là thí chủ, là ruộng tốt, là nhân sanh Phạm Thiên, trụ chỗ ly dục, trừ bỏ oán đối và gốc đấu tranh, Chư Phật tán thán, người trí kính mến, hay giữ tịnh giới, sanh trí tuệ sáng suốt, hay nghe pháp lợi, công đức đề hồ, quyết định là người tốt, là sức mạnh của người xuất gia, tiêu diệt các ác.

Kẻ ác mạ nhục, dùng từ đáp lại, có thể hàng phục, tụ họp sự vui vẻ, sanh pháp tinh tấn, là cội gốc của phú quý, hoàn thành ngôi nhà trí tuệ, là kho thành tín, là cửa của các thiện pháp, là pháp đến danh dự, là cội gốc của sự cung kính, là đạo chân chánh của Phật. Nếu người đem sự ác độc đến thì trở lại tự nhận lấy tai ương.

Lời nói ác có năm loại:

Nói không đúng lúc.

Nói không đúng sự thật.

Nói không lợi ích.

Nói chẳng từ bi.

Nói không nhu hòa.

Năm lời nói ác này không thể làm khuynh động. Tất cả sự độc hại cũng không thể làm thương tổn. Ví như lửa nhỏ không thể đốt biển lớn.

Như trong Kinh Tỳ La, phẩm Ưu Ðiền Vương A Bà Ðà Na có chép:

Có hai phu nhân: Một tên Vô Tỷ, một tên Xá Mê Bà Ðế. Vô Tỷ phỉ báng Xá Mê Bà Ðế, Xá Mê Bà Ðế có năm trăm người hầu.

Vua dùng năm trăm mũi tên muốn bắn chết hết, Xá Mê Bà Ðế bảo với các người hầu: Hãy đứng phía sau ta. Khi ấy Xá Mê Bà Ðế nhập từ tam muội. Vua giương cung bắn, tên rớt dưới chân, mũi tên thứ hai bay trở lại đến dưới chân Vua, Vua rất kinh sợ, nhưng lại muốn phóng tên.

Xá Mê Bà Ðế bảo với Vua: Hãy dừng lại! Hãy dừng lại!

Vì nghĩa vợ chồng nên tôi mới nói: Nếu bắn mũi tên này thì sẽ đi thẳng vào tim ông.

Lúc ấy Vua sợ hãi, ném cung, bỏ tên và hỏi: Ngươi có phép thuật gì?

Ðáp: Tôi không có thuật gì lạ. Tôi là đệ tử của Phật, nhập vào từ tam muội nên mới như vậy.

Từ tam muội này lượt nói có ba loại duyên:

Sanh duyên, pháp duyên, vô duyên.

Người chưa đắc đạo gọi là sanh duyên.

A La Hán, Bích Chi Phật gọi là pháp duyên.

Chư Phật Thế Tôn gọi là vô duyên.

Ðó là lược nói pháp môn từ tam muội.

Người hành đạo Bồ Tát, đối với ba độc, nếu nặng về ngu si thì nên quán mười hai phần, mười hai phần duyên để phá hai loại si: Bên trong thì phá thân si, bên ngoài thì phá chúng sanh si.

Tư duy rằng: Ta và chúng sanh đồng ở trong ách nạn, thường sanh, thường già, thường bệnh, thường chết, thường hoại diệt, thường tan rã.

Chúng sanh thật đáng thương, không biết lối thoát thì làm sao thoát được?

Nhất tâm tư duy: Sanh già bệnh chết từ nhân duyên sanh.

Lại nên tư duy nhân duyên sanh thế nào?

Nhất tâm tư duy: Sanh do duyên hữu, hữu do duyên thủ, thủ do duyên ái, ái do duyên thọ, thọ do duyên xúc, xúc do duyên lục nhập, lục nhập do duyên danh sắc, danh sắc do duyên thức, thức do duyên hành, hành do duyên vô minh.

Như thế lại tư duy: Phải dùng nhân duyên nào diệt sanh già và chết?

Nhất tâm tư duy: Do sanh diệt nên già chết diệt, hữu diệt nên sanh diệt, thủ diệt nên hữu diệt, ái diệt nên thủ diệt, thọ diệt nên ái diệt, xúc diệt nên thọ diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, hành diệt nên thức diệt, si vô minh diệt nên hành diệt.

Trong mười hai phần này như thế nào?

Phần vô minh:

Không biết trước, không biết sau, không biết trước sau.

Không biết trong, không biết ngoài, không biết trong ngoài.

Không biết Phật, không biết pháp, không biết Tăng.

Không biết khổ, không biết tập, không biết tận, không biết đạo.

Không biết nghiệp, không biết quả, không biết nghiệp quả.

Không biết nhân, không biết duyên, không biết nhân duyên.

Không biết tội, không biết phước, không biết tội phước.

Không biết thiện, không biết bất thiện, không biết thiện bất thiện.

Không biết pháp có tội, không biết pháp không tội.

Không biết pháp nên gần, không biết pháp nên xa.

Không biết pháp hữu lậu, không biết pháp vô lậu.

Không biết pháp thế gian, không biết pháp xuất thế gian.

Không biết pháp quá khứ, không biết pháp vị lai, không biết pháp hiện tại.

Không biết pháp đen, không biết pháp trắng.

Không biết phân biệt pháp nhân duyên.

Không biết pháp lục xúc.

Không biết pháp thật chứng…

Các thứ như thế không biết, không tuệ, không thấy, tối tăm, không sáng, gọi là vô minh.

Vô minh duyên hành.

Thế nào gọi là hành?

Hành có ba loại: Thân hành, khẩu hành, ý hành.

Thế nào là thân hành?

Hơi thở vào ra là pháp của thân hành.

Vì sao?

Vì pháp ấy thuộc về thân nên gọi là thân hành.

Thế nào là khẩu hành?

Có giác, có quán. Khởi giác quán rồi sau đó miệng mới nói. Nếu không có giác quán thì không có lời nói. Ðó là khẩu hành.

Thế nào là ý hành?

Thống tưởng là pháp của ý. Vì thuộc về ý nên gọi là ý hành. Lại nữa, hành thuộc Dục Giới, hành thuộc Sắc Giới, hành thuộc Vô Sắc Giới.

Lại có thiện hành, bất thiện hành, bất động hành.

Thế nào là thiện hành?

Là tất cả thiện hành của Dục Giới, cũng như ba địa của Sắc Giới.

Thế nào là bất thiện hành?

Là các pháp bất thiện.

Thế nào là bất động hành?

Là thiện hành hữu lậu của Tứ Thiền và thiện hành hữu lậu của định vô sắc, gọi là hành.

Nhân hành duyên thức.

Thế nào gọi là thức?

Là sáu loại thức giới: Từ nhãn thức cho đến ý thức. Ðó gọi là sáu thức.

Nhân thức duyên danh sắc.

Thế nào gọi là danh?

Bốn phần vô sắc:Thống tưởng hành thức, gọi là danh.

Thế nào gọi là sắc?

Là tất cả sắc: Bốn đại và tạo sắc, gọi là sắc.

Thế nào là bốn đại?

Là địa, thủy, hỏa, phong.

Thế nào là địa?

Là tướng cứng chắc, nặng nề.

Tướng ẩm ướt là thủy.

Tướng nóng bức là hỏa.

Tướng nhẹ, động là phong.

Ngoài sắc có thể thấy, có đối, không đối gọi là tạo sắc. Danh và sắc hòa hợp nên gọi là danh sắc. Nhân danh sắc duyên lục nhập.

Thế nào là lục nhập?

Bên trong có sáu nhập: từ nhãn nhập cho đến ý nhập, gọi là lục nhập. Nhân lục nhập duyên xúc.

Thế nào gọi là xúc?

Là sáu loại xúc giới: Nhãn xúc cho đến ý xúc.

Thế nào là nhãn xúc?

Nhãn duyên sắc, sanh nhãn thức. Ba pháp hòa hiệp gọi là nhãn xúc,… cho đến ý xúc cũng như vậy. Nhân xúc duyên thọ.

Thế nào là thọ?

Có ba loại thọ: Thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không khổ.

Thế nào là thọ vui?

Là sự sai khiến của ái.

Thế nào là thọ khổ?

Là sự sai sử của giận.

Thế nào là thọ không khổ không vui?

Là sự thúc giục của si. Lại nữa, thọ vui sanh vui, trụ vui diệt khổ. Thọ khổ thì sanh khổ, trụ khổ thì hết vui. Thọ không khổ không vui là không biết khổ, không biết vui. Nhân thọ duyên ái.

Thế nào là ái?

Mắt tiếp xúc với sắc, sanh đắm mến, cho đến ý tiếp xúc với pháp sanh đắm mến. Nhân ái duyên thủ.

Thế nào là thủ?

Dục thủ, kiến thủ, giới thủ. Ta nói là thủ. Nhân thủ duyên hữu.

Thế nào là hữu?

Hữu có ba loại: Dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu. Dưới từ A Tỳ Ðại Nê Lê, trên đến Trời Tha Hóa Tự Tại, gọi là dục hữu, đều hay tạo nghiệp.

Thế nào là Sắc hữu?

Từ Cõi Trời Phạm Thế lên đến Trời A Ca Nị Trá, gọi là sắc hữu.

Thế nào là Vô Sắc hữu?

Từ hư không cho đến Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, gọi là Vô Sắc hữu. Nhân hữu duyên sanh.

Thế nào là sanh?

Các loài chúng sanh, sanh ra ở đâu đều có thọ ấm, được gìn giữ, được thọ nhận, được mạng sống, gọi là sanh. Nhân sanh duyên lão tử.

Thế nào là lão?

Răng rụng, tóc bạc, mặt nhiều nếp nhăn, các căn suy kém hư hỏng, khí nghẹn tắc, lưng còm, chống gậy mà đi. Vì thân ấm suy yếu nên gọi là lão, già.

Thế nào là chết?

Tất cả chúng sanh ở đâu cũng đều đi đến chỗ hoại diệt. Dứt hết thọ mạng gọi là chết. Vì trước già sau chết nên gọi là già chết. Trong mười hai nhân duyên này, tất cả thế gian đều thuộc ranh giới của nhân duyên, chẳng thuộc ranh giới của trời, chẳng thuộc ranh giới của người, chẳng thuộc ranh giới của các tà duyên mà xuất hiện.

Bồ Tát quán mười hai nhân duyên, buộc tâm bất động, không nghĩ bên ngoài, hễ nghĩ các duyên ngoài liền thu nhiếp trở về.

Quán mười hai phần, trong ba đời: Đời trước, đời này, đời sau. Bồ Tát nếu tâm được an trú thì nên quán mười hai phần rỗng không, không có chủ. Si nên không biết việc làm của mình, không biết hành động của mình từ si mà có.

Chỉ vì duyên với vô minh nên hành sanh. Như hạt giống của thảo mộc từ mầm hạt mà ra. Hạt cũng không biết ta sanh ra từ mầm, mầm cũng không biết từ hạt mà có… cho đến lão tử cũng lại như vậy. Trong mười hai phần này, mỗi mỗi đều quán biết vô chủ, không ngã, như thảo mộc vô chủ, chỉ từ hiểu biết điên đảo mà có tôi ta.

Hỏi: Nếu không có tôi ta, không chủ, không tạo tác thì tại sao xưa nay nói chết đây sanh kia?

Ðáp: Tuy không có tôi ta nhưng sáu tình làm nhân, sáu trần làm duyên, trong đó sanh ra sáu thức. Do ba việc hòa hợp nên xúc pháp sanh mà nghĩ biết các nghiệp.

Do đó xưa nay nói từ đó mà có sanh tử. Ví như viên ngọc Nhật Ái, nhờ phương tiện hòa hợp với mặt trời và phân bò khô nên phát ra lửa. Ngũ ấm cũng vậy, do năm ấm đời này sanh nên mới sanh năm ấm đời sau. Chẳng phải năm ấm đời này đến đời sau. Cũng không lìa năm ấm đời này mà có năm ấm đời sau.

Năm ấm chỉ từ nhân duyên sanh ra. Ví như mầm sanh ra từ hạt lúa, hạt lúa cũng chẳng phải mầm, cũng chẳng ngoài mầm mà có, chẳng phải khác, chẳng phải một.

Có thân đời sau cũng vậy. Ví như cây chưa có cành, nhánh, lá, hoa, quả, gặp nhân duyên thời tiết thì hoa lá đầy đủ. Quả báo của nghiệp thiện ác cũng lại như vậy. Do chủng tử hoại nên chẳng phải thường, chẳng phải một. Do mầm, nhánh, lá sanh trưởng nên không phải đoạn, không phải khác. Chết sống liên tục cũng lại như vậy.

Hành giả biết các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, tự sanh tự diệt, biết do ái mà có. Biết nhân diệt là tận, biết tận là đạo. Dùng bốn loại trí biết mười hai phần là đạo chánh kiến. Chúng sanh vì đắm trước nên bị điên cuồng. Như người có bảo châu vô giá mà không biết đó là bảo châu thật, nên bị người lừa bịp.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần