Phật Thuyết Kinh Tăng Chi Bộ - Chương Hai - Hai Pháp - Phẩm Bốn - Phẩm Tâm Thăng Bằng
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT
KINH TĂNG CHI BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
CHƯƠNG HAI
HAI PHÁP
PHẨM BỐN
PHẨM TÂM THĂNG BẰNG
Này các Tỳ Kheo, ta sẽ giảng cho các thầy về địa vị bậc không phải Chân Nhân và địa vị bậc Chân Nhân. Hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng.
Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Các Tỳ Kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
Thế tôn nói như sau: Này các Tỳ Kheo, thế nào là địa vị bậc không phải Chân Nhân?
Người không phải Chân Nhân, này các Tỳ Kheo, không biết ơn, không nhớ ơn. Ðối với những người độc ác, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỳ Kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị kẻ không Chân Nhân, này các Tỳ Kheo, tức là không biết ơn, không nhớ ơn. Còn bậc Chân Nhân, này các Tỳ Kheo, là biết ơn, là nhớ ơn.
Ðối với những thiện nhân, đây là đặc tánh của họ được biết đến, này các Tỳ Kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Ðây hoàn toàn là địa vị bậc Chân Nhân, này các Tỳ Kheo, tức là biết ơn, nhớ ơn. Có hai hạng người, này các Tỳ Kheo, ta nói không thể trả ơn được.
Thế nào là hai?
Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỳ Kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi. Nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỳ Kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha.
Hơn nữa, này các Tỳ Kheo, nếu có an trí cha mẹ vào Quốc Độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỳ Kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha.
Vì cớ sao?
Vì rằng, này các Tỳ Kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỳ Kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin.
Đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới. Đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí.
Đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha. Rồi một Bà La Môn đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm ngồi xuống một bên.
Bà La Môn ấy nói với Thế Tôn: Tôn Giả Gotama đã nói gì, đã thuyết gì?
Này Bà La Môn, ta thuyết về hành động và ta thuyết về không hành động.
Như thế nào, Tôn Giả Gotama thuyết về hành động và thuyết về không hành động?
Ta thuyết không hành động, này Bà La Môn, đối với thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác. Ta thuyết không hành động đối với nhiều loại pháp ác, bất thiện. ta thuyết hành động, này Bà La Môn, đối với thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ thiện. Ta thuyết hành động đối với nhiều loại pháp thiện.
Như vậy, này Bà La Môn, ta thuyết về hành động và thuyết về không hành động. Thật vi diệu thay, Tôn Giả Gotama từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng. Rồi gia chủ Anàthapindika đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, gia chủ Anàthapindika bạch Thế Tôn: Có bao nhiêu người, bạch Thế Tôn, đáng được cúng dường ở đời?
Và chỗ nào cần phải bố thí cúng dường.
Có hai hạng người, này gia chủ, đáng được cúng dường ở đời: Hữu học và vô học. Ðối với hai hạng người này đáng được cúng dường ở đời, này gia chủ, ở đây cần phải bố thí cúng dường.
Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Hữu học và vô học
Cả hai ở trong đời
Ðều đáng được cúng dường
Ðối với người dâng lễ
Họ giữ thân chánh trực
Cả lời nói ý nghĩ
Phước điền người dâng cúng
Ðây thí có quả lớn.
Như vậy tôi nghe!
Một thời, Thế Tôn ở tại Sàvatthi, Thắng Lâm, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn Giả Sàriputta trú ở Sàvatthi, tại Ðông Viên, ngôi lâu đài của mẹ Migàra.
Tại đấy, Tôn Giả Sàriputta gọi các Tỳ Kheo: Này Chư Hiền Tỳ Kheo!
Thưa Hiền giả! Các Tỳ Kheo ấy vâng đáp Tôn Giả Sàriputta, Tôn Giả Sàriputta nói như sau: Này Chư Hiền, tôi sẽ giảng về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.
Thưa vâng, Hiền giả!
Các Tỳ Kheo ấy vâng đáp Tôn Giả Sàriputta, Tôn Giả Sàriputta nói như sau: Này Chư Hiền, thế nào là người bị nội kiết sử trói buộc?
Ở đây, này Chư Hiền, Tỳ Kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên Giới.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy làm người lại trở về, trở về ở Thế Giới này. Vị này, này Chư Hiền, được gọi là người bị nội kiết sử trói buộc, người lại trở lại, trở lui trạng thái này.
Thế nào, này Chư Hiền, là người bị ngoại kiết sử trói buộc?
Ở đây, này Chư Hiền, Tỳ Kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới. Vị ấy, chứng đạt và an trú tịch tịnh tâm giải thoát.
Sau khi thân hoại mạng chung, Vị ấy sanh vào một loại Chư Thiên. Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này Chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.
Lại nữa, này các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Vị ấy thực hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các dục vọng. Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt khát ái. Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt tham. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên Giới.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Vị này, này Chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa. Rồi một số đông Chư Thiên với tâm thăng bằng đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, Chư Thiên ấy bạch Thế Tôn: Tôn Giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông Viên, ở lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn.
Lành thay!
Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn Giả Sàriputta. Thế Tôn im lặng nhận lời.
Rồi Thế Tôn, rồi như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâm, hiện ra ở tại Ðông Viên, tại lâu đài mẹ Migàra, trước mặt Tôn Giả Sàriputta. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi Tôn Giả Sàriputta đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên.
Thế Tôn nói với Tôn Giả Sàriputta đang ngồi xuống một bên: Ở đây, này Sàriputta, có một số đông Chư Thiên, với tâm thăng bằng, đi đến ta. Sau khi đến, đảnh lễ ta rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, Chư Thiên ấy thưa với ta: Tôn Giả Sàriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông Viên, ở lâu đài mẹ Migàra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc. Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn.
Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn Giả Sàriputta. Này Sàriputta, Chư Thiên ấy tuy con số đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau.
Này Sàriputta, Thầy có thể nghĩ như sau: Chắc chắn, tại chỗ kia trên Thế Giới đã tu tập, nhờ vậy, Chư Thiên ấy, tuy con số đến mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau.
Này Sàriputta, thầy chớ có thấy như vậy. Chính tại đây, này Sàriputta, Chư Thiên ấy đã tu tập tâm, nhờ như vậy Chư Thiên ấy tuy con số đến không chen lấn nhau.
Do vậy, này Sàriputta, cần phải học tập như sau: Chúng tôi sẽ có các căn an tịnh, các ý an tịnh.
Này Sàriputta, cần phải học tập như vậy. Với những ai có các căn an tịnh, này Sàriputta, với những ai có các ý an tịnh, thời thân nghiệp cũng sẽ được an tịnh, khẩu nghiệp được an tịnh, ý nghiệp được an tịnh. Chúng ta sẽ đem tặng cho các vị đồng phạm hạnh một quà tặng an tịnh.
Như vậy, này Sàriputta, các thầy cần phải học tập. Các du sĩ ngoại đạo nào, này Sàriputta, không được nghe pháp môn này, họ sẽ bị thiệt hại.
Như vậy tôi nghe!
Một thời Tôn Giả Mahà Kaccàna ở tại Vanara, trên bờ sông Kaddamada. Rồi Bà La Môn Aràmadanda đi đến Tôn Giả Mahà Kaccàna, sau khi đến, nói lên với Tôn Giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Ngồi xuống một bên, Bà La Môn Aràmadanda thưa với Tôn Giả Mahà Kaccàna: Do nhân gì, thưa Tôn Giả Kaccàna, do duyên gì các người Sát Đế Lỵ tranh chấp với các người Sát Đế Lỵ, các người Bà La Môn tranh chấp với các người Bà La Môn, các người Gia Chủ tranh chấp với các người gia chủ?
Do nhân Thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham, này Bà La Môn, nên các quý tộc tranh chấp với các quý tộc, các người Bà La Môn tranh chấp với các người Bà La môn, các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ.
Do nhân gì, thưa Tôn Giả Kaccàna, do duyên gì các Sa Môn tranh chấp với các Sa Môn?
Do nhân Thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham, này Bà La Môn, nên các Sa Môn tranh chấp với các Sa Môn.
Nhưng thưa Tôn Giả Kaccàna, có người nào ở đời có thể vượt qua Thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua Thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này?
Có người ở đời này, này Bà La Môn, có thể vượt qua Thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua Thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này.
Vị ấy là ai, này các Bà La Môn, có thể vượt qua Thiên chấp kiến tham này?
Ở Quốc Độ phương Ðông, này Bà La Môn, có một thành phố tên là Sàvatthi, tại đấy, Thế Tôn nay đang trú, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị Thế Tôn ấy, này Bà La Môn, đã vượt qua Thiên chấp kiến tham này.
Khi được nghe nói vậy, Bà La Môn Aràmadanda từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phía hữu quỳ trên đất, chắp tay hướng về phía Thế Tôn, và nói lên ba lần lời cảm hứng như sau:
Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác!
Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác!
Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác!
Vị Thế Tôn ấy, đã vượt qua Thiên chấp kiến tham này.
Thật vi diệu thay, thưa Tôn Giả Kaccàna!
Thật vi diệu thay, thưa Tôn Giả Kaccàna!
Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, thưa Tôn Giả Kaccàna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, hay đem đèn vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Tôn Giả Kaccàna dùng nhiều Pháp Môn để giải thích.
Thưa Tôn Giả Kaccàna, con nay xin quy y Tôn Giả Gotama, quy y Pháp, quy y Chúng Tỳ Kheo Tăng!
Mong Tôn Giả Kaccàna chấp nhận con làm Cư Sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!
Một thời, Tôn Giả Mahà Kaccàna trú ở Madhurà, tại rừng Gundhà. Rồi Bà La Môn Kandaràyana đi đến Tôn Giả Mahà Kaccàna. Sau khi đến, nói lên với Tôn Giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên với Tôn Giả Mahà Kaccàna những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, Bà La Môn Kandaràyana thưa với Tôn Giả Mahà Kaccàna:
Tôi có nghe như sau, thưa Tôn Giả Kaccàna: Sa Môn Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc Bà La Môn già cả, Trưởng Lão, các bậc Trưởng Thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt mức cuối tuổi đời.
Thưa Tôn Giả Kaccàna, có phải sự tình là như vậy không?
Nếu Tôn Giả Kaccàna không kính lễ, không đứng dậy, không lấy ghế mời ngồi các bậc Bà La Môn già cả, Trưởng Lão, các bậc Trưởng Thượng đã đi quá nửa cuộc đời, đã đạt cuối mức tuổi đời, sự tình như vậy, thưa Tôn Giả Kaccàna, là không được tốt đẹp.
Này Bà La Môn, có Thế Tôn, bậc Tri giả, bậc Kiến giả, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác đã tuyên bố về địa vị của tuổi Trưởng Lão và về địa vị của tuổi trẻ.
Vị Trưởng Lão, này Bà La Môn, tám mươi tuổi hay chín mươi tuổi, hay một trăm tuổi đời, nếu vị ấy thọ hưởng các dục vọng, sống giữa các dục vọng, bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não của dục vọng, bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, cố gắng tìm cầu các dục vọng. Người như vậy được gọi là kẻ ngu, không phải là bậc Trưởng Lão.
Dầu cho này Bà La Môn, một người còn trẻ, một thanh niên trẻ trung với tóc đen nhánh, đầy đủ tuổi trẻ hiền thiện trong thời sơ khởi của tuổi đời, mà người ấy không hưởng thọ các dục vọng, không sống giữa các dục vọng.
Không bị đốt cháy bởi lửa nhiệt não của dục vọng, không bị nhai nghiến bởi các tầm tư dục vọng, không có cố gắng tìm cầu các dục vọng. Người như vậy được gọi là bậc có trí, bậc Trưởng Lão.
Khi được nghe nói vậy, Bà La Môn Kandarãyana từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, cúi đầu đảnh lễ chân các Tỳ Kheo còn trẻ tuổi và nói: Trưởng Lão là Chư Tôn Giả, đã đứng trên địa vị Trưởng Lão. Trẻ tuổi là chúng con, đã đứng trên địa vị trẻ tuổi. Thật vi diệu, Tôn Giả Kaccàna, mong Tôn Giả Kaccàna chấp nhận con làm Cư Sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
Khi nào các người ăn trộm cường mạnh, này các Tỳ Kheo, trong khi ấy, các Vua Chúa yếu đuối, trong khi ấy, thật không an toàn cho các Vua Chúa để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các Biên Cương. Và trong khi ấy, thật không an toàn cho các Bà La Môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra, đi giám sát các công việc làm ở ngoài.
Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, khi các ác Tỳ Kheo cường mạnh, trong khi ấy, các thuần tịnh Tỳ Kheo yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỳ Kheo, các Tỳ Kheo thuần tịnh giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỳ Kheo, hoặc đi đến các Quốc Độ biên địa.
Và như vậy, này các Tỳ Kheo, là bất hạnh cho đa số, là không an lạc cho đa số, là không lợi ích cho đa số, là bất hạnh, đau khổ cho Chư Thiên và loài người. Khi nào, này các Tỳ Kheo, các Vua chúa cường mạnh, trong khi ấy, các trộm cướp yếu đuối, trong khi ấy, thật an toàn cho các Vua chúa để đi qua lại, đi ra, đi quan sát các Biên Cương.
Và trong khi ấy, thật an toàn cho các Bà La Môn, các gia chủ để đi qua lại, đi ra, đi giám sát các công việc làm ở ngoài. Cũng vậy, này các Tỳ Kheo, khi các thuần tịnh Tỳ Kheo cường mạnh, trong khi ấy, các ác Tỳ Kheo yếu đuối. Trong khi ấy, này các Tỳ Kheo, các ác Tỳ Kheo giữ thái độ im lặng, hoặc ẩn mình giữa chúng Tỳ Kheo, hoặc đi các chỗ khác.
Và như vậy, này các Tỳ Kheo, là hạnh phúc cho đa số, là an lạc cho đa số, là lợi ích cho đa số, là hạnh phúc, an lạc cho Chư Thiên và loài người.
Ta không tán thán hai loại tà hạnh, này các Tỳ Kheo, ở người gia chủ hay ở người xuất gia. Người gia chủ, này các Tỳ Kheo, hay người xuất gia theo tà hạnh, do nhân duyên tà hạnh, không thể đem lại chánh lý, thiện pháp. Ta tán thán hai loại chánh hạnh, này các Tỳ Kheo, ở người gia chủ hay ở người xuất gia.
Người gia chủ, này các Tỳ Kheo, hay người xuất gia theo chánh hạnh, do nhân duyên chánh hạnh, có thể đem lại chánh lý, thiện pháp. Những Tỳ Kheo nào, này các Tỳ Kheo, chặn đứng cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ sai lạc các Kinh Điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỳ Kheo ấy, này các Tỳ Kheo, chịu trách nhiệm về bất hạnh cho đa số, không an lạc cho đa số, không lợi ích cho đa số, bất hạnh, đau khổ cho Chư Thiên và loài người.
Ngoài ra, các Tỳ Kheo ấy, này các Tỳ Kheo, chất chứa nhiều vô phước làm cho diệu pháp biến mất. Những Tỳ Kheo nào, này các Tỳ Kheo, tùy thuận cả văn và nghĩa, bằng cách nắm giữ đúng đắn các Kinh Điển và những văn tự thích ứng, thì những Tỳ Kheo ấy, này các Tỳ Kheo, chịu trách nhiệm về hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, hạnh phúc, và an lạc cho Chư Thiên và loài người.
Ngoài ra, các Tỳ Kheo ấy, này các Tỳ Kheo, chất chứa nhiều phước đức, làm cho diệu pháp an trú.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tín Lực Nhập ấn Pháp Môn - Phần Mười
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Ba - Pháp Hội Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ - Phần Bốn
Phật Thuyết Kinh Thuận Quyền Phương Tiện - Phẩm Bốn - Phẩm Tên Gọi Giả - Tập Một
Phật Thuyết Kinh Tăng Nhất A Hàm - Phẩm Sáu - Phẩm Thanh Tín Sĩ - ưu Bà Tắc
Phật Thuyết Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Phật Giáo Hóa Phạm Chí A Bạt
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội đầu - Phẩm Mười Năm - Phẩm Biện đại Thừa - Phần Bảy