Phật Thuyết Kinh Tế Chư Phật Phương đẳng Học - Phần Một
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẬT THUYẾT KINH
TẾ CHƯ PHƯƠNG ĐẲNG HỌC
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN MỘT
Tôi nghe như vậy!
Một thuở nọ, Đức Phật ngự trên núi Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá, cùng với chúng Đại Tỳ Kheo: Sáu vạn Tỳ Kheo, tám mươi ức Bồ Tát và sáu trăm vạn Ưu Bà Tắc ở nước Ma Kiệt.
Lúc bấy giờ, sắp diệt độ Đức Thế Tôn đến La Duyệt Kỳ thì vừa đúng vào đầu năm mới. Vào thời điểm này Đức Thế Tôn có hiện tượng như vào tam muội chánh thọ, cả tam thiên đại thiên Thế Giới treo giăng phướn lụa năm màu, dựng các cờ lọng, rải hoa, đốt hương, bày các hoa sen trăm ngàn cánh để trang nghiêm.
Hàng vạn Phạm Thiên vương cùng vô số ức trăm ngàn quyến thuộc trong tam thiên Thế Giới cùng đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân rồi lui lại đứng một bên, chắp tay tự quy y.
Trời Tịnh Cư Thân, oai linh Tôn thế Đại thần Diệu Thiên Vương, các Vua rồng, Vua Quỷ Thần, Vua A Tu Luân, Vua Ca Lưu La, Vua Chân Đà La, Vua Ma Hầu Lặc, cùng với vô số ức trăm ngàn quan thuộc đồng đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân rồi lui lại đứng một bên, chắp tay tự quy y.
Các Thần thánh đặc biệt khác thường, các Bồ Tát Đại Sĩ tiết tháo cao vòi vọi trong các Cõi Phật nhiều như cát sông Hằng ở khắp mười phương cùng đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân rồi lui lại đứng một bên, chắp tay tự quy y.
Những người đến dự hội lúc này đã đầy khắp tam thiên đại thiên Thế Giới. Ba mươi ba tầng Trời ở tận cùng thượng giới không còn một khoảng để cắm một cây gậy, dùng kim không châm vào được, chỗ nào cũng đầy chật. Đại Thần Vô Cực, Trời, Rồng, Quỷ, Thần, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hầu Lặc… đều đứng thẳng chiêm ngưỡng dung nhan Đức Phật. Tuy thân khác nhau nhưng tâm đồng nhất, bỏ hết nhân duyên, đồng lòng quy y Phật.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn an nhiên, khoan thai xuất định, ba lần quán sát những người đến trong hội. Quán sát ba lần xong, rồi ba lần nhìn lại Tòa Sư Tử. Nhìn ba lần xong, ba lần hiện ra tướng lưỡi. Hiện tướng lưỡi ba lần xong, ba lần dùng tướng lưỡi trùm khắp tam thiên đại thiên Thế Giới, không sót chỗ nào. Ánh sáng rực rỡ soi khắp mười phương.
Bấy giờ Đức Đại Thánh thâu nhiếp tướng lưỡi, một lần nữa quay nhìn những người đến dự hội. Các người đến hội đều tự nhiên đứng dậy, cúi đầu làm lễ, tự quy mạng Phật.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Di Lặc Đại Sĩ: Này A Dật! Ông nên biết là Bậc Chánh Giác chẳng bao lâu nữa sẽ diệt độ, nếu có điều gì muốn hỏi thì nay đã đúng lúc, nên phải thưa hỏi. Có những điều nghi ngờ mà tâm không hiện được thì nên thưa hỏi Như Lai để sau này không hối hận là sao gặp mặt Đại Thánh mà chẳng giải quyết được.
Bồ Tát Di Lặc bước đến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế Tôn biết thời cơ, thấu suốt sáu thông, các Độ vô cực, không điều gì Thế Tôn không giảng nói, giải quyết tất cả mối nghi ngờ.
Hay thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn tùy lúc tiện lợi giảng nói Kinh Pháp, khiến cho mắt pháp còn mãi.
Bấy giờ, Đại Thần Diệu Thiên Vương cùng tám mươi ức vị Trời cõi Tịnh cư theo nhau đến chỗ Phật, làm lễ dưới chân, chắp tay tự quy mạng, bước đến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là Tế Chư Phương Đẳng Học, là Kinh mà các Đức Phật Như Lai Chí Chân, Đẳng Chánh Giác đời quá khứ giảng nói, hôm nay Đức Đại Thánh rủ lòng thương xót chúng sinh, xin thương xót đem lại nhiều yên ổn, làm cho lời dạy bảo của Đức Như Lai còn mãi.
Khi ấy, Đức Phật im lặng chấp nhận lời khải bạch của đại thần Diệu Thiên vương. Thiên vương thấy Đức Phật im lặng chấp nhận bèn lui lại đứng một bên.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Di Lặc: Này A Dật, ông nên biết! Các Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác đời quá khứ không vị nào không giảng nói về tầm quan trọng của Kinh Tế Chư Phương Đẳng này. Các Đức Như Lai Chí Chân ở các Thế Giới mười phương trong hiện tại và tương lai đều cũng giảng nói Kinh này. Nếu ai không giảng nói Kinh ấy là phỉ báng Phật, chống trái Kinh và hủy hoại các Thánh Hiền.
Vì sao?
Vì nếu nói Kinh này mà tưởng là vô ích, cho chẳng hoàn bị là phỉ báng Phật, chống trái Kinh Điển, hủy hoại Thánh Chúng. Kẻ hủy hoại Tam bảo chắc chắn đọa địa ngục.
Cho nên, này Di Lặc! Nếu có tộc tánh nam, tộc tánh nữ nào học Bồ Tát thừa, thông hiểu các Kinh và các pháp khác, thì ông hãy phân biệt giảng nói nghĩa các Kinh. Nếu muốn bổ sung đầy đủ không thiếu sót văn tự thì tùy theo chánh điển mà dạy, không tự làm tổn hại mình.
Lại nữa, này Di Lặc! Cần phải chuyên tinh suy nghĩ pháp môn này, sau này đời mạt pháp gìn giữ chánh pháp.
Di Lặc đáp: Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Thật như Thánh giáo, con sẽ truyền bá giáo chỉ của Phật không dám trái mệnh.
Đức Phật lại bảo Bồ Tát Di Lặc: Như Lai Chí Chân vào ngày ấy đêm ấy chứng được đạo Vô Thượng Chánh Chân, thành Tối Chánh Giác, đến cõi Nê Hoàn Vô Dư.
Ngày đêm diệt độ Như Lai Chí Chân đâu có ý khuyết lậu lầm quên ư?
Giảng nói mà có niệm xấu chẳng phải là hành vi lầm lỗi chăng?
Ngài Di Lặc đáp: Không phải vậy, bạch Thế Tôn!
Phật lại bảo A Dật: Như Lai kể từ khi thành Tối Chánh Giác vào đêm ấy cho đến ngày diệt độ, những điều đã giảng nói đều rất thành thật, thuận theo thời nghi, không hề luống dối.
Đức Phật nói: Nếu có người ngu chẳng biết Như Lai phương tiện, khéo léo chẳng biết những lời chân thật chắc chắn, ngược lại, truyền bá lời nhảm, tự nói theo ý mình, là việc này đúng nghĩa, nghĩa này không đúng… do đó mà so sánh, bài báng chánh đạo. Nếu bài báng Kinh thì đó chính là báng Phật. Ta nói rằng những người này chắc chắn đọa địa ngục.
Phật bảo Di Lặc: Này Di Lặc! Trong thời mạt pháp đời ngũ trược ở vị lai khi tuổi thọ con người hơn năm mươi tuổi có bốn hạng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di tu theo hạnh Bồ Tát, đáng lý ra họ phải kính mến bản thệ của Bồ Tát, không theo ngoại đạo dị học, thờ phượng Như Lai, thấy được pháp luật do Phật nói nên xuất gia, tu làm Sa Môn, khiêm kính dòng họ Phật.
Nhưng chí của những người ấy chỉ cầu lợi dưỡng, hủy hoại dòng họ Phật, tham đắm nhà cửa, làm rối loạn bản nghiệp. Mặt mày họ không sáng láng, tâm chỉ thích việc nhỏ, tánh chẳng cởi mở không chịu rộng lượng không dứt bỏ tình dục, mong cầu thật nhiều, xa tất cả các pháp môn thực hành tam muội chánh định.
Họ hay nịnh hót, tánh thường nghĩ khác, nói làm chẳng đồng, ham nơi quyền quý, dựa kẻ có thế lực. Họ thấy người trí sáng hiểu rõ pháp tạng thì cho là không hiểu. Mình không biết gì thì tự cho là trí tuệ. Mình không thông minh, tự khen là mình thông minh.
Nhân nương vào Phật Đạo, lập ra ý đây, tâm bình đẳng đối với chúng sinh, phát khởi tâm đại bi thương xót, lại chẳng quên bỏ phương tiện khéo léo, nương nhờ Phật lực nhưng lại trái vượt những điều tin ưa đã giảng dạy trong học thuyết của mình.
Có người lại nói: Nếu có Kinh Điển nói về việc Thanh Văn, người thực hành hạnh Bồ Tát chẳng nên học này, cũng chẳng nên nghe, vì chẳng phải pháp của ta, chẳng phải đạo nghĩa của ta. Vì đó là điều mà Thanh Văn thực hành. Người tu hạnh Bồ Tát cẩn thận chớ học điều đó. Pháp Bích Chi Phật cũng giống như vậy, cẩn thận chớ nghe đến.
Phật bảo A Dật: Phật vì khai hóa sự tin ưa cho các vị Trời mà tùy lúc nói pháp, giáo hóa các Rồng, Thần, A Tu Luân, Ca Lưu La, Chân Đà La, Ma Hầu Lặc, Kiền Đạp Hòa, người và loài không phải người. Tùy theo bổn hạnh của họ, ứng với chí giải thoát của họ mà thuyết pháp khai hóa, khắp đến mười phương nhiều như cát những con sông.
Dắt dẫn làm lợi ích cho chúng sinh tùy theo bổn hạnh, tùy nghi hóa độ, làm lợi ích cho chúng sinh. Nhân theo cái chí tháo ấy mà giảng nói Kinh đạo, độ thoát tất cả, đều được đắc đạo.
Phật bảo Di Lặc: Bây giờ, trong số người học Bồ Tát có kẻ tâm chí tự phiền não. Trong số các Bồ Tát đối với người cang cường, khó hóa độ, tệ ác, hung bạo, nói dối, nói hai lưỡi, ít học, thiếu trí nên, khi truyền bá Phật Đạo lại phân biệt làm hai phần. Người muốn làm Bồ Tát phải học pháp này, không nên học pháp ấy, mà lại có tâm bài báng Phật, chê bai Kinh Điển, tranh chấp với Thánh Chúng, đến khi chết đi, phải đọa vào địa ngục.
Ở địa ngục họ sẽ trải qua vô số kiếp đau khổ, nhưng tội vẫn chưa hết, được thoát ra địa ngục thì lại sinh vào nhà nghèo khổ, thiếu thốn, phải bị nhiều hoạn nạn. Họ phải qua một thời gian rất lâu xa khó lường mới được Phật thọ ký. Tuy được Phật thọ ký nhưng họ phải ở vào cõi đời ngũ trược mới được thành Phật.
Cũng như ta hôm nay, đã từng gặp hoạn nạn lâu dài trong vô số kiếp nên mới ở tại đời ngũ trược mà thành Tối Chánh Giác. Nếu nghe những lời của những kẻ ấy mà người tu Bồ Tát kính nghe tin theo, thọ trì, dốc hết lòng tin suy nghĩ theo lời dạy ấy thì cũng sẽ đọa vào đường ác. Sở dĩ như thế là vì tin theo bạn ác nên phải gặp tai họa này.
Phật bảo A Dật: Thuở quá khứ lâu xa, cách nay với số kiếp nhiều không thể tính kể có Đức Phật Hiệu là Ly Cấu Diệm Thành Tựu Công Đức Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác. Đức Phật ra đời khi con người tuổi thọ sống lâu tám mươi tuổi. Đức Phật giảng nói Kinh đạo cho chúng sinh nghe.
Khi ấy có vị Tỳ Kheo tên là Tịnh Mạng, vì pháp cho nên giảng nói một số Kinh Giáo, lời nói mềm mỏng, biện tài chí chân, khuyến Kinh trợ giúp phát khởi vô số người, hiển cao giáo pháp bình đẳng, đem lại niềm vui sướng.
Bấy giờ, Đức Như Lai Ly Cấu Diệm Thành Tựu Công Đức chúc lụy cho Tỳ Kheo Tịnh Mạng: Về sau, vào đời mạt thế sẽ gìn giữ Chánh Pháp. Sau khi chúc lụy xong Đức Phật diệt độ. Sau khi Đức Như Lai Chí Chân diệt độ, vị Tỳ Kheo trong muôn ức năm gìn giữ pháp phẩm, giảng nói lời Phật dạy, nhờ đó được thâm nhập chỗ cốt yếu của Kinh Tế Chư Phương Đẳng.
Vị Tỳ Kheo đó truyền bá đạo pháp, phát khởi tất cả, thuận những điều mà tâm các chúng sinh ấy ưa thích mà giảng giải, qua lại khắp tám muôn thành ấp, quan sát bản nguyện phát tâm của chúng sinh để giúp họ được đầy đủ, dứt bỏ sự khao khát của các căn.
Vào đời ấy có một nước lớn tên là Nhân Hiền, trong thành có tám mươi ức dân cư. Vị Tỳ Kheo đó cũng quán sát cội nguồn và nói pháp cho họ nghe. Bây giờ trong thành, tám mươi ức gia đình vui mừng vâng theo lời dạy. Vị Tỳ Kheo đó hóa độ được một muôn ức gia đình phát tâm Bồ Tát, bảy mươi chín muôn ức gia đình đứng vào hàng Thanh Văn. Đến đây, Tỳ Kheo Tịnh Mạng cùng với một muôn vị Bồ Tát đồng lòng đi đến nơi tu đạo.
Họ ra đi chưa bao lâu thì có vị Tỳ Kheo tên là Vị Pháp qua lại cùng khắp, từ phương xa đến tại thành Nhân Hiền, vị Tỳ Kheo này vâng giữ thực hành hơn ngàn quyển Kinh Phương Đẳng, hiện được Tứ Thiền, tự cho là cao xa.
Tỳ Kheo Tịnh Mạng học được mười bốn ức quyển Kinh Phương Đẳng và tu được sáu trăm vạn quyển Kinh khác, trong khi Tỳ Kheo Vị Pháp ở tại thành Nhân Hiền chỉ giảng một phẩm giáo pháp, chẳng biết tùy thời quán sát bản hạnh của mọi người mà giảng nói Kinh Pháp.
Tỳ Kheo này không thể hiểu rõ, đạt đến các pháp giới, chỉ khai hóa mọi người bằng pháp không. Nói tất cả pháp không, đều không thật có, chỉ giảng nói được pháp không, cho rằng không tội phước, xem thường các hạnh.
Rồi lại tự xưng: Lời ta nói hôm nay đều là lời Phật dạy, còn những điều giảng dạy của Tỳ Kheo Tịnh Mạng là dựa vào những điều vụn vặt, chí tánh chẳng trong sạch, làm cho người bị vẩn đục.
Ai đã đặt tự hiệu cho Tỳ Kheo ấy là Tịnh Mạng?
Kỳ thật không thanh tịnh Vì sao?
Vì ông ấy nhận lấy các tinh hoa rồi lấy đó mà uống ăn, cũng như nhận lấy các danh hương, các thứ hương xoa rồi cũng lấy đó mà ăn mặc.
Ông ấy học điều ngu tối, si mê không biết gì. Bản thân ta tu học phạm hạnh đã lâu, còn ông ấy vừa mới học và thọ giới, đến nay chưa bao lâu, không đáng tin tưởng. Vả lại, Tỳ Kheo ấy buông lung, muốn làm gì thì làm, vậy mà mọi người lại kính trọng, một lòng vui mừng quy y Tỳ Kheo Tịnh Mạng.
Tỳ Kheo Vị Pháp kia hủy báng như thế, rêu rao những việc xấu của vị Tỳ Kheo kia, nhưng mọi người không tin theo lời dạy Tỳ Kheo Vị Pháp. Tỳ Kheo Vị Pháp dùng tâm độc hại, phỉ báng người có trí tuệ nên sau khi chết bị đọa vào địa ngục suốt tám mươi kiếp.
Do phỉ báng Phật, hủy hoại chánh pháp nên bị đọa vào địa ngục bảy mươi kiếp nữa và thêm sáu mươi kiếp mê lầm thất chí. Hết số kiếp ấy rồi mới trở lại phát khởi tâm đạo đối với Đức Phật Hương Bảo Quang Minh Như Lai.
Đức Phật kia vì ông giảng dạy, lại nói pháp nghĩa, khuyên phát tâm đạo. Rồi ông bị đọa vào loài súc sanh chín trăm muôn đời, sau sinh làm người thường gặp nghèo cùng, ách nạn suốt sáu trăm muôn đời, sinh ra nơi nào thường bị câm, không có lưỡi.
Sau đó ở thế gian lần lượt xuất hiện sáu mươi ba các Đức Phật Chánh Giác, thường làm Pháp Sư trong chánh pháp của các Đức Phật này. Đời đời sinh ra đều đầy đủ năm thứ thần thông, đều được các Đức Phật dạy bảo, đều thông hiểu các pháp, giảng nói nghĩa thanh tịnh.
Phật bảo A Dật: Ông nên biết Tỳ Kheo Tịnh Mạng lúc bấy giờ đâu phải là người nào lạ, đó chính là Đức Phật A Di Đà ngày nay, còn Tỳ Kheo giảng nói pháp kia chính là ta ngày nay. Ta ở cõi ấy đã làm như vậy.
Phật bảo A Dật: Các pháp nhiều việc khó rõ, khó rõ! Nghĩa lý sâu nhiệm như vậy, vì lý do đó nên ta ở cõi đời ngũ trược được thành Chánh Giác.
Phật bảo A Dật: Này A Dật! Nếu có Bồ Tát nói hai thứ pháp thì nhờ đó ở tại cõi đời có ngũ trược sẽ thành Phật Đạo. Vả lại, Cõi Phật ấy có nhiều thứ ma thường hay dấy loạn. Khi thành Phật Đạo nếu giảng Kinh Pháp, chúng cũng nhiễu loạn.
Lúc bấy giờ, những người đến hội đều sụt sùi, rơi lệ.
Họ đều tự nói: Chớ để cho người học dùng hai pháp, giảng nói nghĩa Kinh. Chớ khiến cho bọn người tà vạy ngu si, buông lung, tự cho việc ác là đúng như Tỳ Kheo nói pháp kia, vì các Tỳ Kheo và người tại gia học đạo mà giảng nói rõ ràng những phải quấy.
Lúc ấy trong hội có một trăm vị Bồ Tát liền đứng dậy rồi ngồi xuống đất, gào khóc rơi nước mắt.
Lúc ấy Đức Thế Tôn biết được tâm niệm của các vị Bồ Tát này nên lại hỏi: Này những người dòng họ cao quý!
Vì sao các người ngồi dưới đất gào khóc rơi nước mắt như thế?
Họ liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con tự xét biết đã phạm phải lỗi ấy.
Đức Phật dạy: Đúng thế! Này những Tộc Tánh Tử, đúng như sự suy nghĩ của các người. Thời Đức Phật Định Quang có một vị Bồ Tát tên là Trí Tích. Sau khi Đức Phật diệt độ, Bồ Tát này làm Pháp Sư. Các vị khác cố tìm những khuyết điểm của Phá sư ấy. Từ đó về sau, họ không còn được gặp các Đức Phật, chẳng biết đạo tâm, chẳng được tổng trì, chẳng chứng Tam Muội.
Này Tộc Tánh Tử! Đời trước họ cũng cùng ta phát tâm đạo.
Này Tộc Tánh Tử! Thời gian sau cùng của kiếp Bạt Đà này có Đức Phật Hiệu là Lâu du. Đến thời Đức Phật ấy họ mới có thể chứng được vô sinh pháp nhẫn. Sau đó, qua ba A tăng kỳ kiếp nữa mới đạt đến đạo vô thượng chánh chân, thành Tối Chánh Giác.
Cho nên, này Tộc Tánh Tử! Bồ Tát và Bồ Tát xoay vần gặp nhau, chớ nên sinh tâm khác lạ, soi mói chỗ dở của nhau.
Nếu gặp Bồ Tát, phải tự nghĩ: Xin cho ta được thấy Chùa Phật, gặp Phật Chánh Giác, được thấy Đức Phật đứng trước ta.
Này Tộc Tánh Tử! Giả sử nếu có Bồ Tát gặp Bồ Tát khác mà sinh khởi tâm khác, thấy không bằng Phật, nên tự hủy tổn mình. Do đó, chớ sinh tâm tức giận. Họ gặp Bồ Tát mới phát tâm, thấy không bằng Đức Phật liền lấn lướt, xem thường. Nên biết các Đức Phật, Thế Tôn hiện tại trong vô lượng Thế Giới không thể kể xiết.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh đoạn - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Ma Ha Bát Nhã Sao - Phẩm Một - Phẩm đạo Hạnh
Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Năm - Kinh Tập - Chương Một - Phẩm Rắn - Kinh Bại Vong
Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn - Phẩm Mười Sáu - Phẩm Bồ Tát