Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Bảy - Ngạ Quỷ Sự - Phẩm Hai - Phẩm Ubbarì - Chuyện Nữ Quỷ ở Hakannamunda Kannamundapetì

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP BẢY

NGẠ QUỶ SỰ  

PHẨM HAI

PHẨM UBBARÌ  

CHUYỆN NỮ QUỶ Ở

HAKANNAMUNDA KANNAMUNDAPETÌ  

Bậc Ðạo Sư kể chuyện này trong lúc đang trú tại Sàvatthi. Tương truyền rằng thuở xưa vào thời Đức Phật Kassapa, ở xứ Kimbilà có một đệ tử tại gia đã thọ Tam Quy, cùng chung niềm tín ngưỡng với năm trăm cư sĩ khác chuyên tâm thực hành các thiện sự như trồng hoa viên, xây cầu cống, làm đường sá, và các việc công ích khác.

Vị ấy đã xây một Tinh Xá cúng dường giáo hội Tỳ Kheo và thỉnh thoảng cùng đến nơi ấy với các cư sĩ kia.

Các bà vợ của hội chúng này cũng rất hòa hợp với nhau, thường cùng đi đến Tinh Xá cúng dường vòng hoa, hương liệu, dầu xoa và trên đường đi vẫn nghỉ ngơi tại các hoa viên và nhà trọ.

Rồi một ngày kia, một số kẻ bất lương đang tụ tập với nhau trong nhà trọ của một bà chủ kia, trông thấy nhan sắc diễm lệ của các nữ nhân khi họ đến nghỉ ngơi tại đó, liền đem lòng say mê.

Biết đám nữ nhân này lương thiện, chúng bắt đầu bàn tán với nhau: Ai có khả năng thực hiện việc phá giới hạnh với một nữ nhân trong đám này?

Lập tức một gã đáp: Tôi đây.

Bọn chúng liền bảo: Chúng ta hãy đánh cuộc với hắn một ngàn đồng tiền.

Chúng đánh cuộc như thế và thêm: Nếu bạn thành công, chúng tôi sẽ đưa cho bạn một ngàn đồng. Nếu không thì bạn phải đưa số ấy cho bọn ta. Vì ước mong thắng cuộc và sợ mất tiền, gã bày đủ mưu kế trong lúc đám nữ nhân nghỉ chân tại đó.

Vừa chơi đàn thất huyền cầm du dương vừa hát tình ca êm ái, gã dụ dỗ được một nàng trong đám ấy phá giới hạnh, khiến bọn bất lương kia phải mất một ngàn đồng tiền. Bị gã này đánh bại, bọn chúng bèn đem chuyện ấy kể cho chồng nàng nghe.

Vị này không tin, nhưng cũng hỏi nàng: Nàng có phải là hạng người như các kẻ kia vừa nói chăng?

Nàng phủ nhận ngay: Thiếp không biết những chuyện như vậy. Vì chàng không tin nàng, nàng liền chỉ con chó đang đứng gần đó và thề độc. Nếu thiếp làm ác hạnh như vậy thì mong con chó đen tai cụt này xé xác thiếp ra khi thiếp tái sanh kiếp sau.

Ngoài ra, khi đám nữ nhân biết rõ nàng đã phá giới hạnh, được chất vấn: Nữ nhân này đã phạm tà hạnh kia hay là không phạm?

Họ cũng thề dối trá: Nếu chúng tôi biết thì mong chúng tôi trở thành nô tỳ của bà ấy ở kiếp tái sanh. Về sau người gian phụ kia bị hối hận vì tội lỗi cũ giày vò, nên héo mòn dần và qua đời.

Nàng được tái sanh làm một nữ quỷ trong một lâu đài bên bờ hồ Kannamunda Tai cụt là một trong bảy hồ lớn ở vùng Himalaya Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi.

Hơn nữa, chung quanh mọi phía của lâu đài xuất hiện một hồ sen để vui chơi thỏa thích. Khi đám nữ nhân kia từ trần, do hậu quả lời thề dối trá mà họ đã nói ra, họ liền trở thành bầy nô tỳ của nàng.

Trong lâu đài ấy, nhờ các thiện nghiệp nàng đã thực hiện trong kiếp trước, nàng hưởng thọ lạc thú thần tiên suốt ngày, nhưng đến nửa đêm, do động lực của ác hạnh xưa thúc giục, nàng thức dậy từ tọa sàng và đi đến hồ sen, rồi bị một con chó ngao cắn xé tan thân tại chỗ.

Ngay sau đó nàng lập tức biến hình trở lại với dung sắc kiều diễm như cũ và bước lên lâu đài của nàng, nằm xuống tọa sàng. Tuy nhiên, đám nô tỳ kia lại phải chịu vất vả nhọc nhằn hầu hạ nàng liên tục ngày đêm.

Cứ thế năm trăm năm trôi qua, và bởi vì bọn nữ quỷ nhân hưởng lạc thú thần tiên mà thiếu vắng các đức lang quân, nên chúng bắt đầu mong nhớ họ.

Bấy giờ tại nơi ấy có một con sông phát xuất từ hồ Kannamunda và do một kẽ nứt trong núi, đã chảy xuống tận Sông Hằng. Gần con sông ấy có một vườn xoài sanh trái tiên, cùng với các loại cây mít và nhiều cây khác.

Do vậy bọn chúng suy nghĩ:  Bây giờ đây, chúng ta sẽ ném các trái xoài này vào dòng sông. Như thế khi đã thấy các trái cây trôi bồng bềnh xuống dưới nước, một số nam nhân có thể đến đây để tìm xoài. Sau đó chúng ta sẽ hưởng lạc thú với họ.

Bọn chúng đều làm như vậy. Bấy giờ khi các trái xoài bị thả trôi dạt, đám Đạo Sĩ khổ hạnh lượm được một ít, các sơn nhân tiều phu tìm được số khác, còn một số nữa tấp vào bờ. Tuy thế, có một quả xoài trôi vào dòng Sông Hằng và theo thời gian đến tận Ba La Nại.

Thuở ấy, Vua Ba La Nại đang tắm trên Sông Hằng và được một tấm lưới đồng bao bọc. Thế rồi trái xoài kia đã được dòng nước cuốn đi theo hướng ấy và mắc vào lưới đồng.

Khi các cận vệ của Vua nhìn thấy trái xoài tiên to lớn tuyệt hảo về màu sắc lẫn hương vị, họ liền đem dâng Vua. Ðể thử xoài, Nhà Vua cắt một lát và đưa cho một tên cướp khét tiếng đã bị giam vào ngục.

Khi ăn xong, tên cướp trình: Tâu Ðại Vương, tiểu tử chưa bao giờ ăn được thứ xoài như vậy. Có lẽ đây là xoài tiên. Nhà Vua cho gã một lát nữa. Sau khi ăn xong, làn da nhăn nheo và râu tóc hoa râm của gã biến mất.

Gã trở thành một chàng trai tuấn tú và có thể nói gã đã hồi xuân. Khi thấy vậy, Nhà Vua tràn đầy kinh ngạc, ăn ngay trái xoài và cũng nhận được sự kỳ diệu hy hữu trong cơ thể.

Nhà Vua liền hỏi: Các trái xoài này kiếm được ở đâu?

Ðám cận thần đáp: Tâu Hoàng Thượng, chúng thần nghe nói ở vùng Tuyết Sơn, chúa tể của núi đồi.

Vậy có thể tìm ra chúng chăng?

Tâu Hoàng Thượng, đám thợ rừng có thể biết việc ấy.

Nhà Vua truyền đưa đám thợ rừng vào, ban một ngàn đồng tiền cho một người thợ nghèo và bảo gã ra đi: Này, hãy đi mang xoài tiên về cho trẫm ngay. Kẻ ấy đi lên thượng lưu Sông Hằng đến tận hồ Kannamunda.

Khi gã đã đi quá xa con đường của mọi người, gã gặp liên tiếp ba vị Ẩn Sĩ khổ hạnh chỉ đường, vị thứ ba khuyên gã: Hãy rời bỏ Sông Hằng lớn này, đi theo dòng sông nhỏ kia và cứ lên mãi cho đến khi chú thấy một kẽ nứt trong núi đá. Rồi chú phải vào sâu trong đó ban đêm với ngọn đèn.

Vì con sông này không chảy ban đêm, nên chú có thể du hành cách ấy. Gã làm theo lời dặn, và vào lúc rạng đông, gã đến một vùng có chính vườn xoài tuyệt diệu ấy.

Khu rừng vang dội tiếng hót du dương của nhiều đàn chim đủ loại và được tô điểm thêm vẻ đẹp bằng những khóm cây xanh sum suê vươn những cành lá trĩu xuống dưới sức nặng của các chùm trái. Cả vùng rực rỡ trong làn ánh sáng tỏa ra từ vô số châu ngọc. Hai câu này được bổ sung từ tập Sớ giải của Dhammapala.

Thế rồi, khi các nữ nhân vắng chồng đã lâu, nay thấy gã đi đến từ xa, vội chạy tới bảo nhau: Người này thuộc về ta! Người này thuộc về ta!

Thuở ấy, gã chưa từng làm các thiện nghiệp xứng đáng hưởng thọ lạc thú thần tiên với hội chúng này trong tiên cảnh. Vì thế chỉ thoạt trông thấy chúng, gã đã kinh hoàng vừa chạy vừa thét lớn.

Khi về tới Ba La Nại, gã trình Nhà Vua mọi sự đã xảy ra. Khi nghe việc này, trong tâm Nhà Vua khởi lên một ước muốn gặp các nữ quỷ thần kia và hưởng thú ăn xoài tiên. Vì thế Nhà Vua liền giao Quốc Độ cho các vị cận thần, và lấy cớ đi săn, Nhà Vua đem cung tên và kiếm cùng vài thị vệ khởi hành về vùng ấy như lời người thợ rừng dặn.

Sau khi đi được vài do tuần, Nhà Vua giã từ đám cận vệ và tiếp tục đi với người thợ rừng. Sau một khoảng đường nữa, Nhà Vua lại bảo gã trở về. Vào lúc rạng đông, Nhà Vua đã đến vườn xoài trong tiên cảnh.

Thuở ấy, khi các nữ quỷ thần thấy Nhà Vua hồi xuân như một Tiên Đồng giáng thế, liền ra nghênh tiếp và khi biết Ngài là một quân Vương, chúng liền đưa vào lâu đài, dâng các thứ tiên thực và phục vụ Ngài như ý.

Thế rồi sau một trăm năm mươi năm trôi qua, một hôm Nhà Vua thức dậy nửa đêm và thấy nữ quỷ đã phạm giới kia đi ra phía bờ hồ sen. Ðộng lòng hiếu kỳ, Ngài đi theo nữ quỷ.

Sau đó Ngài thấy nữ quỷ bị một con chó lớn vồ xé xác ngay khi vừa mới tới nơi. Suốt ba ngày liền Ngài suy xét, không làm sao có thể hiểu được ý nghĩa việc này.

Hôm sau này cầm mũi tên nhọn bắn con chó kia bỏ mạng và vừa khi nữ quỷ đã nhảy vào hồ sen, lập tức Ngài thấy nàng xuất hiện với dung sắc phục hồi như trước.

Ngài liền ngâm kệ hỏi nàng những sự việc đã xảy ra:

Ðây vàng ròng đúc các cầu thang

Nằm dựa lên trên dải cát vàng,

Diễm lệ, ngát hương hoa súng trắng,

Gây niềm lạc thú tận tâm can.

 Bao cây làm thảm phủ trên hồ,

Theo gió đủ mùi hương thoảng đưa,

Hồ mọc tràn đầy sen đỏ thắm

Ðiểm tô sen trắng nỏn cành tơ.

 Lay động theo làn gió nhẹ nhàng

Mặt hồ kỳ thú tỏa hương lan,

Âm vang với tiếng thiên nga, hạc,

Văng vẳng hồng nga hót gọi đàn.

Ðây các bầy chim đủ mọi loài,

Ngân nga bao tiếng hót êm tai,

Cây trồng sanh quả tiên phong phú,

Rừng mọc kỳ hoa ở khắp nơi.

Thành phố như đây thật tuyệt vời

Khó tìm thấy ở cõi người đời.

Nàng nhiều cung điện bằng vàng bạc,

Lấp lánh bốn phương chiếu sáng ngời.

Lại có năm trăm tỳ nữ ấy

Sẵn sàng phục vụ lệnh nàng thôi.

Bọn chúng mang vòng ốc, vỏ trai,

Ðiểm trang y phục dệt vàng tươi,

Nàng nhiều sàng tọa bằng vàng bạc

Ðưọc trải da dê quý phía ngoài.

Tất cả đều chu đáo sẵn sàng,

Bên trong được phủ với chăn màn

Dệt bằng lông thú, khi nằm xuống,

Nàng thọ hưởng bao nỗi lạc hoan.

Tuy nhiên, khi đến nửa đêm khuya,

Nàng thức dậy và cất bước ra

Ði tới hoa viên đầy lạc thú

Bao quanh hồ nước phủ Liên Hoa.

Bên bờ nàng đứng lại soi mình,

Tiên nữ ở trên thảm cỏ xanh,

Bỗng một chó ngao tai cắt cụt

Vồ nàng xé xác đến tan tành.

Khi nàng đã bị nát toàn thân,

Và đã biến thành một bộ xương,

Nàng vội nhảy vào hồ nước biếc,

Hình hài trở lại đẹp muôn phần.

Thân thể nàng nay đã vẹn toàn,

Cực kỳ diễm lệ, đóa hồng nhan,

Ðiểm trang đủ thứ thiên y đẹp,

Nàng đến cho ta diện kiến nàng.

Ngày xưa nàng phạm ác hành nào

Do khẩu, ý, thân đã phạm vào,

Con chó cụt tai nay xé xác

Bởi vì quả báo tội gì sao?

Khi được Nhà Vua hỏi như vậy, nữ quỷ liền kể chuyện đời này:

Ngày xưa ở xứ Kim Bi La,

Có một nam cư sĩ tại gia,

Ðệ tử với tâm thành mộ đạo,

Thiếp là ác phụ nghiệp gian tà.

Bởi vì thiếp phạm tội dâm loàn,

Chồng của thiếp lên tiếng hỏi han:

Nàng đã tạo ra điều bất xứng

Là không tiết hạnh với chồng nàng.

Thế rồi thiếp phải nói lời thề

Giả dối tràn đầy khủng khiếp kia:

Thiếp chẳng dám lừa chàng việc ấy,

Dù thân hay ý cũng chưa hề.

Song nếu thiếp vi phạm việc này

Dù thân hay ý bấy lâu rày,

Thì mong con chó ngao tai cụt

Cắn xé thiếp tan nát cả thây.

Thiếp từng chịu đựng bảy trăm năm

Quả báo do tà hạnh, dối gian,

Từ ấy, chó ngao tai cắt cụt

Xé thân từng mảnh thật kinh hoàng.

Nàng nói như vậy xong rồi lại ngâm hai vần kệ ca ngợi đặc ân mà Nhà Vua đã ban cho nàng:

Quân Vương thần lực thật cao cường,

Ngài đã đến đây cứu quỷ nương,

Ðược thoát chó ngao tai cụt ấy,

Thiếp không còn sợ hãi, đau buồn.

Quân Vương, thiếp kính cẩn tôn sùng

Ðảnh lễ cầu xin Đấng Chúa Công

Hãy thọ hưởng Thần Tiên lạc thú,

Quân Vương và thiếp hãy vui chung.

Ngay lúc ấy bỗng nhiên Nhà Vua cảm thấy chán sống ở cảnh tiên kia, liền nói ý định giã từ cho nàng biết và ngâm vần kệ cuối cùng:

Ta đã hưởng bao thú Cõi Tiên,

Cùng nàng hoan lạc thật vô biên,

Giờ đây, Tiên Nữ, ta mong ước,

Mau hãy đem ta trở lại liền.

Khi đã nghe lời của Nhà Vua, nữ quỷ thần ở lâu đài ấy không chịu nổi sự biệt ly. Lòng nàng rối bời vì đau khổ ưu phiền và toàn thân nàng run lên xúc động. Song dù nàng đã dùng đủ cách khẩn cầu Nhà Vua, nàng cũng không thể thuyết phục Ngài ở lại được nữa.

Nàng đành đưa Ngài về Kinh Đô cùng nhiều châu báu và rước Ngài vào cung điện. Sau đó nàng than khóc bi thảm và trở về trú xứ của nàng ngay.

Khi Nhà Vua thấy vậy, lòng Ngài xúc động vô cùng. Từ đó về sau Ngài thực hành nhiều thiện sự như bố thí cùng các phương tiện khác và được sanh lên Cõi Thiên.

Thế rồi khi Đức Thế Tôn Gotama giáng sanh ở cõi đời, và theo thời gian đã đến cư trú tại thành Sàvatth, một hôm Tôn Giả Mahà Moggallàna du hành vào vùng núi này trông thấy Nữ Thần cùng đoàn tùy tùng của nàng, bèn hỏi về hạnh nghiệp mà nàng đã tạo trước kia.

Nàng kể với Tôn Giả mọi sự và Tôn Giả trình bày câu chuyện ấy lên Đức Thế Tôn.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần