Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Hai Mươi Hai - Phẩm Một - Chuyện đại Vương Mahàjanaka Tiền Thân Mahà Janaka - Phần Hai
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI
PHẨM MỘT
ĐẠI PHẨM
CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG MAHÀJANAKA
TIỀN THÂN MAHÀ JANAKA
PHẦN HAI
Vị tế sư trấn an mọi người xong, chắp hai tay lại, cúi xuống trước Ngài cung kính nói: Xin Ðại Vương đứng dậy, Vương Quốc này thuộc quyền Ngài rồi.
Bồ Tát trả lời: Thế Đức Vua đâu?
Vua đã băng hà.
Ngài không có Vương Tử, Vương đệ gì sao?
Tâu Ðại Vương, không. Thôi được, thế thì ta nhận ngai vàng. Rồi Ngài đứng dậy, ngồi xếp bằng trên bệ đá. Quần thần làm lễ quán đảnh rảy nước Thánh lên đầu để phong Vương cho Ngài tại đó và thế là Ngài trở thành Vua Mahàjanaka.
Rồi Ngài bước lên xe về thành với vẻ uy nghi lẫm liệt của bậc Đế Vương. Ngài vào cung, bước lên ngai vàng, ban chức tước cho vị đại thần và các quan lại khác.
Lúc bấy giờ công chúa muốn thử tài của Ngài qua cách xử sự đầu tiên, liền cho gọi một thị vệ đến bảo: Ngươi hãy tâu với Ðại Vương là công chúa Sìvalì muốn mời Ngài đến lập tức.
Vị Vua tài trí này làm như không nghe lời gã, cứ tiếp tục phát họa cung điện: Phải thế này mới được.
Biết không thể nào làm Nhà Vua chú ý tới mình, gã trở lại tâu công chúa: Tâu công chúa, Ðại Vương nghe công chúa nói vậy mà cứ tiếp tục phát họa sơ đồ Hoàng Cung thôi, Ngài chẳng quan tâm gì đến công chúa cả.
Công chúa tự nhủ: Ðây phải là người có tâm hồn cao cả lắm. Và nàng cho một sứ giả thứ hai rồi thứ ba đến nữa. Sau cùng Vua vào cung, dáng điệu thong dong thư thái, ngáp dài dáng như sư tử. Khi Ngài đến gần, công chúa không thể nào đứng yên được trước vẻ uy nghi của Ngài, liền bước lên đưa tay ra cho Ngài vịn.
Ngài cầm lấy tay nàng đi lên bệ vàng và sau khi ngự trên Vương sàng, dưới cây lọng trắng, Ngài hỏi các đại thần: Khi tiên đế thăng hà, Ngài có chỉ dạy các ngươi điều gì không?
Họ đáp: Vương Quốc phải được giao cho kẻ nào có thể làm đẹp lòng công chúa.
Thế công chúa đã đưa tay cho ta vịn khi ta đến gần nàng, như vậy ta đã làm đẹp lòng nàng rồi, còn điều gì khác nữa?
Tiên đế bảo Vương Quốc phải được trao lại cho kẻ biết được phía đầu của ngự sàng hình vuông này.
Vua đáp: Ðiều này khó nói thật, nhưng cũng có thể biết được nhờ sáng kiến.
Thế là Ngài rút ra một cây kim vàng trên đầu Ngài và đưa đưa cho công chúa, bảo: Đặt cái này vào cho đúng chỗ. Nàng cầm lấy kim đặt vào đầu của chiếc ngự sàng.
Thấy vậy, họ đưa ra câu tục ngữ: Nàng trao tặng chàng thanh kiếm. Nhờ dấu hiệu này, Ngài biết đâu là phía đầu ngự sàng, nhưng cứ vờ làm như Ngài không nghe họ nói. Ngài hỏi họ nói gì, và khi họ lập lại câu đó.
Ngài bảo: Biết đầu chiếc ngự sàng cũng không kỳ diệu gì.
Rồi Ngài hỏi: Còn gì để thử tài nữa.
Họ đáp: Tâu Ðại Vương, tiên đế ra lệnh trao ngôi báu cho người nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người. Khi họ đem cây cung đến theo lệnh Ngài. Ngài giương nó lên ngay lúc đang ngồi trên Long sàng như thể đó là cái khung xe chỉ của đàn bà. Cái gì nữa cứ nói đi Ngài bảo.
Tiên đế ra lệnh trao Vương Quốc cho kẻ nào tìm ra được mười sáu kho tàng.
Danh sách đâu?
Các đại thần kể lại danh sách đã nói trên. Trong lúc nghe họ nói, Ngài thấy ý nghĩa dần dần sáng tỏ ra như thể trăng hiện lên trên bầu Trời. Hôm nay chưa phải lúc, để ngày mai ta sẽ đi lấy các kho báu.
Ngày hôm sau Ngài họp Quần Thần lại và hỏi: Tiên đế trước đây có cúng dường các vị Ðộc Giác Phật không?
Khi nghe họ bảo có, Ngài nghĩ thầm: Mặt Trời ở đây không phải là mặt trời thật, mà các vị Ðộc Giác Phật thường được gọi là mặt trời vì hình dáng tương tự như thế. Vậy kho tàng phải ở nơi Tiên Đế thường đến gặp các vị này.
Rồi Ngài bảo họ: Khi các vị Ðộc Giác Phật đến, Tiên Đế thường gặp các Ngài ở đâu?
Họ tâu lại nơi này nơi nọ. Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên và tìm ra kho tàng.
Thế khi Tiên Đế tiễn các vị Ðộc Giác Phật ra về, tiên đế đứng ở đâu để tạ từ?
Họ tâu lại và Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên.
Quần thần reo hò vang dậy tỏ lòng hân hoan đồng nói: Khi nghe nói chỗ mặt trời mọc, dân chúng trước kia đã quanh quẩn đào đất về phía mặt trời mọc thật, rồi khi nghe phía mặt trời lặn, họ lại đào đất phía đó, nhưng đây mới đúng là kho tàng châu báu, thật là kỳ diệu!
Khi họ bảo: Kho tàng bên trong. Ngài liền cho đào lên kho tàng ở bậc thềm nhà bên trong đại môn của Hoàng Cung. Kho tàng bên ngoài.
Ngài liền cho đào kho tàng ở bên ngoài thềm. Không ở trong cũng không ở ngoài. Ngài cho đào kho tàng ở dưới thềm. Ở nơi bước lên. Ngài cho đào kho tàng ở nơi đặt chiếc thang bằng vàng để Nhà Vua ngự lên Vương Tượng.
Ở nơi bước xuống. Ngài cho lấy ra kho tàng ở nơi Nhà Vua ngự xuống từ Vương Tượng. Ở bốn cột trụ lớn bằng gỗ sàla. Có bốn chân chống lớn dưới Vương sàng, làm bằng gỗ sàla, nơi triều thần phủ phục trên sân chầu, từ đó Ngài cho lấy ra bốn bình đầy châu báu.
Vòng dây cương yojana. Lúc bấy giờ yojana là vòng dây cương xe ngựa, thế là Ngài cho đào quanh long sàng cỡ bằng một vòng dây cương ngựa, rồi lấy ra các bình châu báu.
Kho tàng ở đầu răng. Ở nơi Vương Tượng đứng, Ngài lấy ra hai bình châu báu ngay trước hai ngà voi. Ở mút đuôi.
Từ nơi Vương mã đứng, Ngài lấy ra những bình châu báu nằm chỗ đối diện với cái đuôi của Vương mã. Trong nước kebuka.
Lúc bấy giờ, nước được gọi là Kebuka, thế là Ngài cho tát hết nước trong hồ của Hoàng Cung và lấy lên kho báu.
Kho báu ở ngọn cây. Ngài lấy ra các bình báu vật chôn trong khoảng tàng cây sàla che bóng trưa giữa vườn ngự uyển.
Như vậy Ngài đã lấy ra đủ mười sáu kho báu và hỏi xem còn nữa không, họ đồng đáp: Không còn. Dân chúng vô cùng hoan hỷ.
Nhà Vua lại bảo: Ta sẽ đem châu báu này ra bố thí. Thế là Ngài bảo dựng lên năm sảnh đường bố thí giữa Kinh Thành và tại các cung môn rồi ban lệnh đại chẩn tế. Sau đó Ngài truyền đi mời mẹ Ngài và người Bà La Môn từ Kalacampà về tuyên dương tán thán công đức của hai vị.
Trong những ngày đầu tiên trị nước, Vua Mahàjanaka, con trai của Vua Aritthajanaka, cai trị khắp mọi Quốc Độ ở Videha.
Dân chúng bảo nhau: Hoàng Đế thật tài đức, chúng ta muốn yết kiến long nhan. Thế là cả Kinh Thành xôn xao muốn yết kiến tân Vương, đem đến Kinh Đô đủ lễ vật từ khắp nơi.
Họ chuẩn bị đại lễ tại Kinh Đô, phủ lên hào lũy cả Hoàng Cung một lớp hồ vữa in dấu tay của họ, treo đầy hương liệu và tràng hoa, tung vãi ngũ cốc rang, hoa, hương trầm mù mịt cả bầu Trời và soạn sẵn đủ thức ăn uống. Khi mang lễ vật vào dâng lên Vua, họ đứng vây quanh với đủ loại phẩm vật cứng, mềm, mọi thức uống, trái cây.
Ðám đại thần ngồi một bên, một bên là các Bà La Môn, một phía nữa là các thương nhân giàu có, một phía nữa là các vũ nữ xinh đẹp, các Bà La Môn danh ca có tài về lễ nhạc, hát vang những khúc hoan ca, với hàng trẫm nhạc cụ được khua động, cho nên Hoàng Cung vang dậy lên một âm thanh ầm ỹ như giữa lòng đại dương Yugandhara. Khi Vua nhìn quanh mọi nơi, hết thảy đều rúng động.
Bồ Tát ngồi dưới cây lọng trắng, ngắm cảnh huy hoàng rực rỡ chẳng khác nào cung của Sakka Thiên Chủ, và Ngài hồi tưởng những chiến đấu gian nan của Ngài trên đại dương.
Dũng cảm là điều chính đáng cần phải biểu dương, nếu ta không biểu lộ lòng dũng cảm trên đại dương thì làm sao ta được huy hoàng như ngày nay?
Một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng Ngài trong lúc hồi tưởng quá khứ, khiến Ngài lập tức bật lên một tiếng kêu to đắc thắng.
Sau đó Ngài hoàn thành Thập Vương pháp mười nhiệm vụ của một anh quân, cai trị rất đúng pháp và thường cúng dường các vị Ðộc Giác Phật. Cùng với thời gian này, Hoàng Hậu Sìvalì hạ sinh một hoàng nam đầy đủ các tướng tốt lành và được đặt tên là Dìghàvu Kumàra Vương Tử Trường Thọ.
Khi Hoàng Tử lớn lên, Nhà Vua phong con làm kẻ phó Vương. Một ngày kia, người giữ vườn ngự uyển đem dâng Vua đủ loại hoa quả. Vua rất đẹp ý và muốn làm vinh dự cho gã, Ngài bảo gã trang hoàng ngôi vườn ngự uyển rồi Ngài sẽ đến viếng. Người làm vườn vâng lời Ngài dạy, xong tâu Vua. Ngài liền ngự Vương Tượng có đám cận thần theo hầu, đi vào cổng ngự viên.
Bấy giờ gần đó có hai cây xoài xanh tươi, một cây không trái, còn một cây đầy trái rất ngon ngọt. Trước đây Vua chưa nếm trái nào nên không ai dám hái cả. Ngay khi Nhà Vua đi ngang qua trên mình voi Ngài hái một trái ăn thử.
Lúc quả xoài đụng đầu lưỡi Ngài một mùi hương cao quý xông lên khiến Ngài nghĩ thầm: Khi trở về, ta sẽ hái thêm nhiều trái nữa. Nhưng khi được biết Vua đã nếm trái đầu tiên rồi thì mọi người từ Thái Tử đến các người quản tượng đều tụ tập lại ăn xoài, còn những người không ăn trái thì lại lấy gậy phá cây, ngắt lá cho đến lúc cây tơi tả, xơ xác trong lúc cây kia vẫn đứng sững tươi đẹp như một ngọn núi ngọc bích. Khi ra khỏi ngự viên, thấy vậy Vua liền hỏi các đại thần.
Họ tâu: Khi đám người này thấy Hoàng Thượng đã ngự trái đầu tiên rồi, thì họ phá cây. Nhưng cây kia không mất một ngọn lá nào. Nó không thiệt hại gì vì nó không có quả.
Vua vô cùng xúc động: Cây này giữ được màu xanh tươi vì nó không có quả, trong lúc cây bạn nó bị tan tành vì có quả. Vương Quốc này cũng như cây có quả kia, còn đời người tu hành chẳng khác nào cây không trái. Chính người có của cải mới sợ hãi, chứ kẻ mình trần thân trụi thì chẳng phải sợ gì.
Ta sẽ giống như cây không trái kia, chứ chẳng giống cây có trái nọ tý nào. Ta quyết sẽ từ bỏ tất cả cảnh huy hoàng lại, từ bỏ thế gian và trở thành vị khổ hạnh.
Quyết định vậy xong, Ngài mới vào thành, đứng ở cửa cung, cho mới vị đại tướng vào bảo: Này Tướng quân, từ hôm nay đừng cho ai yết kiến ta, trừ một thị giả đem cơm cho ta và một thị giả khác đem nước và bàn chải cho ta súc miệng.
Còn khanh hãy cùng các Chánh phán quan lão thần trong triều lo cai trị nước. Từ nay ta sẽ sống tu hành như một Ẩn Sĩ đệ tử Phật trên Tháp Hoàng Cung. Nói xong, Ngài đi lên đỉnh Tháp Hoàng Cung một mình và sống đời Tu Sĩ theo Đạo Phật.
Thời gian qua, dân chúng tụ tập trong sân chầu mà không yết kiến Bồ Tát được, họ bảo nhau:
Ngài chẳng giống Ðại Vương của ta ngày trước.
Rồi họ ngâm kệ:
Chúa Thượng, Ðại Vương cõi thế gian,
Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,
Hoan ca, Ngài chẳng lưu tâm đến,
Vũ nữ, Ngài không thiết ngó ngàng.
Hươu nai, ngự uyển, đám thiên nga
Chẳng quyến rũ đôi mắt hững hờ,
Tĩnh tọa, Ngài thành câm lặng quá,
Ðể bao việc nước cứ trôi qua.
Họ lại hỏi thị giả và người hầu cận của Vua: Ðại Vương có bao giờ nới chuyện với quý vị không?
Không bao giờ cả Họ đáp.
Rồi họ kể lại chuyện Đức Vua với tâm trí luôn luôn trầm mặc, xa rời mọi dục lạc.
Ngài nhớ lại các Bậc Hiền Hữu của Ngài, các vị Ðộc Giác Phật, và tự nhủ: Ai có thể chỉ cho ta biết nơi an trú của các Hiền Nhân đã giải thoát mọi tham ái và đầy đủ mọi công đức này?
Rồi Ngài cảm khái ngâm lớn ba vần kệ:
Tránh ngoại cảnh, chuyên chú lạc tâm,
Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,
Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,
Ðồng trú bao Hiền Thánh Trí nhân?
Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,
Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,
Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,
Chư vị ly tham, bước tịnh an.
Các Ngài phá hết lưới ma thần,
Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,
Thoát mọi buộc ràng, thanh thản bước,
Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?
Ngài sống đời Ẩn Sĩ tu hành trong cung Vua được bốn tháng, cuối cùng Ngài quyết tâm từ bỏ đời thế tục. Ngài thấy cung Vua chẳng khác nào một tầng địa ngục ở giữa các thế gian, và ba cõi sinh hữu Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới đang bốc cháy.
Trong tâm trạng ấy, Ngài bỗng phát họa cảnh Kinh Thành Mithilà cùng với ý tưởng: Bao giờ thì đến lúc ta từ giã Kinh Thành Mithilà huy hoàng rực rỡ như Cung Trời Sakka Ðế Thích này để đi vào rừng Himavat Tuyết Sơn khoác áo khổ hạnh?
Khi nào rời bỏ Mi Thi là,
Lộng lẫy nguy nga quả thật là,
Bao kiến trúc sư đà tạo dựng
Công trình đồ sộ đẹp lòng ta.
Chiến lũy, cung môn, các dãy thành,
Phố phường giăng trải khắp chung quanh,
Ngựa, bò, xe chạy từng đoàn lũ,
Hồ nước, vườn hoa thật đẹp xinh.
Kinh Thành danh vọng khắp xa gần,
Rộn rịp bao binh sĩ, tướng quân,
Mình khoác chiến bào da hổ báo,
Vẫy cờ, khí giới sáng tưng bừng.
Bà La Môn mặc lụa Kà Si
Sực nức trầm hương, điểm ngọc chi,
Cung điện và cung phi mỹ nữ
Mang đầy mão miện, đủ hoàng y.
Bao giờ ta bỏ chúng, đi ra
Tìm Cực Lạc đơn độc xuất gia,
Mang phấn tảo y, bình nước uống,
Bắt đầu đời hạnh phúc riêng ta?
Bao giờ ta lạc bước vào rừng,
Ăn trái cây hoang dã đón mừng,
Hòa điệu lòng ta vào độc trú
Như người hòa điệu thất huyền cầm?
Tâm ta giải thoát khỏi mong cầu
Lợi lạc đời này hoặc kiếp sau,
Như thể thợ giày làm guốc gỗ
Bào mòn các cạnh láng trơn mau.
Lúc bấy giờ Ngài sinh vào thời kỳ con người thọ đến muôn tuổi. Vì vậy sau khi trị nước bảy ngàn năm, Ngài làm Ẩn Sĩ, Ngài còn ba ngàn năm nữa và lúc bắt đầu sống đời khổ hạnh, Ngài vẫn còn ở Hoàng Cung bốn tháng kể tử ngày thấy cây xoài, nhưng rồi Ngài tự nhủ ở am ẩn sĩ tốt hơn ở Hoàng Cung.
Thế là Ngài bí mật bảo người hầu cận tìm cho Ngài vài chiếc y vàng và một bình bát bằng đất bán ở chợ. Ngài cho mời người hớt tóc vào cạo bỏ râu tóc Ngài, xong mặc một y vàng bên trong, một y vàng bên ngoài, đắp một y nữa lên vai.
Rồi cầm chiếc gậy, Ngài đi lui tới nhiều lần trên gác Hoàng Cung với những bước chân ngất ngưỡng của một vị Ðộc Giác Phật. Ngày hôm ấy Ngài còn ở đây, nhưng sáng sớm hôm sau, Ngài bắt đầu đi xuống.
Hoàng Hậu Sìvalì cho gọi bảy trăm cung nữ được sủng ái vào bảo: Ðã lâu lắm rồi, cả bốn tháng tròn kể từ khi chúng ta gặp Thánh Thượng lần cuối, hôm nay chúng ta sẽ giáp được mặt Rồng. Vậy các nàng hãy trang điểm mình thật đẹp, làm sao cố mê hoặc Thánh Thượng để Ngài tham đắm dục lạc không thoát ra nổi.
Ðược các cung nữ trang sức lộng lẫy hộ tống, Hoàng Hậu bước lên Hoàng Cung để yết kiến Vua. Nhưng dù thấy Ngài đi xuống, bà không nhận ra Ngài, cứ tưởng đó là một vị Ðộc Giác Phật đến giáo hóa Vua. Bà đảnh lễ và đứng qua một bên. Rồi Bồ Tát bước xuống khỏi Hoàng Cung.
Nhưng Hoàng Hậu, khi lên lầu ngắm các lọn tóc của Vua màu ong nghệ rớt trên long sàng, cùng các vật dụng tắm rửa của Ngài, liền thét lên: Ðó không phải vị Ðộc Giác Phật đâu, có lẽ đó là Thánh Thượng tôn quý của ta rồi. Thôi ta phải van xin Ngài trở lại.
Thế là từ gác Hoàng Cung đi xuống sân Rồng, Hoàng Hậu cùng các cung phi xõa tóc ra rũ rượi trên lưng, đấm ngực đi theo Nhà Vua than khóc thảm thiết: Ôi Ðại Vương, sao Ngài nỡ làm vậy?
Cả Kinh Thành náo động lên, dân chúng ùa theo Đức Vua khóc lóc: Thánh Thượng đã làm Ẩn Sĩ rồi, ta còn tìm đâu ra một vị anh quân như vậy nữa?
Lúc ấy bậc Ðạo Sư tả cảnh các cung phi khóc lóc và Nhà Vua cứ bỏ mặc họ mà đi, đã ngâm kệ này:
Kìa đứng bảy trăm vị thứ phi
Dang tay cầu khẩn, dáng sầu bi,
Ðiểm trang đầy ngọc vàng châu báu:
Ðại đế sao Ngài nỡ bỏ đi?
Giã từ tất cả bảy trăm nàng
Xinh đẹp, thanh tao, lại dịu dàng,
Ðại đế đi theo lời ước nguyện
Với lòng kiên định quyết không sờn.
Giã từ chén rượu lễ đăng quang,
Dấu xưa Vương giả cảnh huy hoàng,
Hôm nay Ngài lấy bình bằng đất,
Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.
Hoàng Hậu Sìvalì thấy khóc than không thể cản bước Vua được, liền nghĩ một cách khác. Bà cho triệu viên đại tướng quân đến ra lệnh đốt lửa trước mặt Vua, giữa đám nhà hoang phế, nằm trên hướng Vua đi tới chất cao cỏ rác thành từng đống, khói tỏa mịt mù khắp nơi. Vị này tuân lệnh.
Rồi bà chạy đến chân Vua, quỳ xuống chân Ngài, tâu rằng Kinh Thành Mithilà đang bốc cháy qua hai vần kệ này:
Thật là khủng khiếp, lửa hoành hành,
Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,
Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,
Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.
Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,
Tất cả gặp chung phận phủ phàng,
Tâu Chúa Thượng, xin mau trở lại
Cứu tài sản trước lúc tiêu vong.
Bồ Tát trả lời: Ô hay, Hoàng Hậu nói gì vậy?
Kẻ nào có của cải mới lo bị đốt cháy, chứ ta có gì đâu?
Ta chẳng có đâu của cải gì,
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Mi thi la có nguy cơ cháy,
Ta cũng chẳng còn cháy vật chi!
Nói xong Ngài đi ra phía bắc môn, các cung phi cũng theo sau. Hoàng Hậu Sìvali ra lệnh bảo họ chỉ cho Ngài xem các làng mạc bị tàn phá, đất bị bỏ hoang và họ lại chỉ cho Ngài thấy nhiều người mang khí giới chạy đi cướp bóc khắp nơi, trong khi một số người khác được phết sơn đỏ lên người và khiêng đi trên các tấm ván như thể bị thương hay đã chết rồi.
Dân chúng la hét lên: Tâu Ðại Vương, trong khi Ngài gìn giữ giang sơn chúng phá phách giết hại đồng bào như vậyđó.
Thế là Hoàng Hậu ngâm vần kệ van xin Vua trở về:
Bọn giữ rừng đang bỏ đất hoang,
Xin Ngài về cứu độ toàn dân,
Giang sơn đừng để Ngài không trị,
Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.
Nhà Vua suy nghĩ: Khi ta đang cai trị, không có cướp bóc nào nổi lên phá hoại đất nước cả, chắc đây là trò bịa đặt của Hoàng Hậu Sìvalì.
Vì vậy Ngài ngâm các vần kệ này như thể Ngài không biết bà nói gì:
Ta chẳng có đâu của cải gì,
Sống không lo lắng hoặc sầu bi,
Giang sơn có thể nằm hoang vắng,
Nhưng chính ta không thiệt hại chi.
Chúng ta không có của gì riêng,
Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,
Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc
Khác gì một vị Quang âm Thiên.
Dù Ngài nói vậy, dân chúng vẫn đi theo Ngài, Ngài tự nhủ: Họ không muốn trở về, vậy ta phải buộc họ trở về.
Rồi khi Ngài đi được chừng nửa dặm, Ngài quay lui hỏi vị Ðại Thần: Ðất nước này của ai đây?
Tâu Ðại Vương, đất nước của Ðại Vương.
Vậy thì hãy trừng phạt kẻ nào vượt khỏi ranh giới này. Nói xong Ngài vạch một lằn ranh bằng cây gậy của Ngài. Không một kẻ nào dám vi phạm ranh giới này cho nên dân chúng đứng sau lằn ranh la khóc ầm ỹ.
Hoàng Hậu cũng không thể vượt lằn ranh, chỉ biết nhìn theo Nhà Vua đang đi xa dần, quay lưng về phía bà. Rồi bà không ngăn được sầu khổ, đấm ngực khóc lóc, ngã xuống, cố vượt qua khỏi lằn ranh.
Dân chúng la to: Quân canh giữ đã phá lằn ranh rồi. Thế là họ theo gương Hoàng Hậu bước qua. Bậc Ðại Sĩ đi về phía bắc rừng Himavat Tuyết Sơn, Hoàng Hậu cũng đi theo Ngài, kéo theo cả binh sĩ cùng đoàn voi ngựa để cỡi. Vua không ngăn chặn họ được nên cứ tiếp tục cuộc hành trình chừng sáu mươi dặm nữa.
Lức bấy giờ có một Ẩn Sĩ tên gọi Nàrada ở trong Kim cốc núi Himavat đã chứng được năm thắng trí.
Sau bảy ngày nhập định, vị ấy xuất Thiền và đắc thắng reo lên: Ôi Cực Lạc! Ôi Cực Lạc! Rồi trong khi vị ấy dùng Thiên nhãn nhìn xem có ai trong cõi Diêm Phù Đề này đang đi tìm Cực Lạc như vậy không, chợt vị ấy thấy Bồ Tát Mahàjanaka.
Vị ấy nghĩ: Ông Vua này đã làm đại sự xuất thế, nhưng lại không ngăn được đám đông dân chúng do Hoàng Hậu Sìvalì dẫn đường. Chúng có thể gây cản trở cho Ngài. Vậy ta phải khích lệ sao cho Nhà Vua giữ chí nguyện vững vàng hơn nữa.
Rồi vị ấy dùng thần lực đứng trên không trước mặt Vua ngâm kệ để giúp tăng cường quyết tâm của Ngài:
Do đâu huyên náo ở đằng kia
Như thể là đình đám hội hè,
Sao đám đông này đang tụ tập,
Xin Ngài Ẩn Sĩ nói cho nghe?
Vua liền đáp:
Ta đã vượt ranh giới, xuất gia,
Cho nên dân chúng đến đây mà,
Ta xa đời với lòng an lạc,
Người đã biết rồi, sao hỏi ta?
Vị ẩn sĩ ngâm vần kệ để xác nhận ý chí của Vua:
Ðừng nghĩ rằng Ngài đã vượt ranh,
Vẫn còn dao động ở trong mình,
Vẫn còn cừu địch ngay đằng trước,
Chiến thắng Ngài chưa thể đạt thành.
Bậc Ðại Sĩ lớn tiếng tuyên bố:
Không dục lạc dầu thuộc loại nào
Làm sờn ý chí vững bền đâu,
Cừu nhân nào cản đường ta được,
Trong lúc ta đang tới đích mau?
Sau đó Ẩn Sĩ ngâm vần kệ nêu rõ các chướng ngại
Hôn trầm, phóng dật theo tham dục,
Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,
Thân đón bọn này như khách quý,
Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.
Bậc Ðại Sĩ liền khen ngợi vị ấy qua vần kệ Ðạo Sĩ, lời khuyên đáng Bậc Hiền.
Cám ơn người đã nói lời trên,
Trả lời ta hỏi như người muốn:
Xin nói là ai đó, họ tên?
Ẩn sĩ đáp: Ta đây Danh Hiệu Na Ra Da,
Từ chốn ẩn cư Tiên Giới ta,
Vừa đến, nói điều này với bạn:
Kết giao bậc trí tối ưu mà.
Thực hành bốn pháp tối cao thay,
Tìm Cực Lạc trong Thánh Đạo này,
Dù thiếu thứ gì, Ngài cũng mặc,
Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.
Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao
Ðều không xứng với Bậc Hiền đâu,
Hãy xem giới luật và tri kiến
Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.
Rồi Nàrada bay về cõi an trú của mình.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba