Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Mười - Chuyện Tiền Thân đức Phật - Chương Mười Năm - Phẩm Hai Mươi - Bài Kệ - Chuyện ðại Vương Bhallàtiya Tiền Thân Bhallàtiya
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán
PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
An Thế Cao, Đời Hậu Hán
TẬP MƯỜI
CHUYỆN TIỀN THÂN ĐỨC PHẬT
CHƯƠNG MƯỜI NĂM
PHẨM HAI MƯƠI
BÀI KỆ
CHUYỆN ÐẠI VƯƠNG BHALLÀTIYA
TIỀN THÂN BHALLÀTIYA
Ngày xưa có Đại Đế Bhallà. Câu chuyện này bậc Ðạo Sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về Hoàng Hậu Mallikà Mạt Lợi tức Nương Tử Vũ Quý Hoa.
Một buổi kia, chuyện kể rằng có việc xích mích giữa Hoàng Hậu và Vua về quyền lợi trong đời sống nội cung, Vua nổi giận và không muốn nhìn mặt bà.
Bà suy nghĩ: Ta chắc Đức Như Lai không biết Đức Vua đang giận hờn ta. Khi bậc Ðạo Sư biết chuyện ấy, ngày hôm sau, Ngài đi vào khất thực tại Ba La Nại có Tăng Chúng theo hầu, rồi đến tận cung môn. Vua bước ra đón Ngài và cầm lấy bình bát của Ngài, vừa rước Ngài lên thượng lầu, mời Tăng Chúng ngồi theo thứ tự thích hợp, rồi dâng nước chào mừng cùng với thực phẩm thượng vị. Sau buổi cơm, Vua ngồi xuống một bên.
Bậc Ðạo Sư hỏi: Tại sao Hoàng Hậu Mallikà không đến?
Vua đáp: Chỉ vì lòng kiêu mạn ngu si về cảnh vinh quang của bà ta đấy.
Bậc Ðạo Sư bảo: Này Ðại Vương, xưa kia, đã lâu lắm rồi, khi Ðại Vương còn là một Tiên Nam, Ðại Vương rời xa bạn đời của mình chỉ một đêm thôi mà về sau cứ mãi thương tiếc cả bảy trăm năm đó.
Rồi theo lời thỉnh cầu của Vua, Ngài kể một chuyện quá khứ. Một thuở nọ, có một vị Vua tên là Bhallatiya trị vì tại Ba La Nại. Do nỗi say mê món thịt nai rừng bốc khói trên hỏa lò lôi cuốn, Ngài giao phó Vương Quốc cho các Đại Thần, rồi trang bị đủ năm thứ vũ khí cùng một bầy chó săn thông minh tinh luyện, Ngài lên xa giá rời Kinh tiến về vùng Tuyết Sơn.
Ngài cứ du hành dọc theo Sông Hằng mãi tận nơi không còn lên cao được nữa, liền đi theo một phụ lưu thêm vài đoạn đường, vừa giết nai, lợn rừng vừa thưởng thức món thịt nướng kia, cho đến khi Ngài trèo tận một đỉnh cao.
Nơi đó có một con suối đầy thi vị chảy xuống khắp vùng, nước cao lên tận ngực, song vào các mùa khô ráo chỉ gần đến đầu gối.
Lúc ấy các đàn cá rùa, đủ loại tung tăng, dải cát dưới nước sáng loáng như bạc, cây cối hai bên bờ rủ xuống nặng trĩu hoa trái, chim chóc, ong bướm say sưa hút nước trái chín và mật ong, bay lượn dưới bóng cây râm mát, nơi đây từng đàn hươu nai đủ loại vẫn lai vãng luôn.
Bấy giờ trên bờ suối xinh đẹp này có đôi Tiên đang ôm chặt nhau, âu yếm vuốt ve nhau rồi bỗng tiếng khóc than rền rĩ vô cùng thảm thiết.
Trong lúc Vua trèo lên đỉnh Gandhamàdana Hương Sơn men theo dòng suối này, Ngài chợt nhận thấy đôi Tiên kia: Tại sao họ cứ khóc than rền rĩ như thế này?
Ngài suy nghĩ, Ta muốn hỏi xem sao. Ngài chỉ cần liếc bầy chó săn và búng ngón tay, bầy chó thuần chủng thấy dấu hiệu này là hiểu ngay phần việc của chúng, liền bò vào dưới bụi rậm và nằm sát đất.
Vừa khi Ngài đã thấy chúng đã khuất dạng, Ngài đặt cung tên cùng các vũ khi kia cạnh gốc cây gần đó và rón rén đi nhẹ nhàng đến gần đôi Tiên để khỏi ai nghe lọt bước chân, rồi Ngài cất tiếng hỏi: Tại sao các ngươi than khóc?
Ðể giải thích việc này, bậc Ðạo Sư ngâm ba vần kệ:
Ngày xưa có Đại Đế Bhallà,
Ngài vẫn đi săn bắn thật xa,
Trèo tận Hương Sơn và chợt thấy
Ðầy hoa nở rộ với yêu ma.
Ngài truyền bầy chó thảy nằm yên,
Ðặt các cung tên xuống đất liền,
Tiến bước để đưa lời ướm hỏi,
Chốn kia vừa thấy cặp Thần Tiên:
Ðông đã qua, sao lại trở về
Hàn huyên tâm sự cạnh sơn khê?
Các ngươi sao giống phàm nhân quá,
Người gọi loài gì, nói trẫm nghe.
Nghe Vua hỏi, vị Tiên Nam không nói gì, nhưng Tiên Nữ đáp lại như sau:
Tam đỉnh, Hoàng Sơn, núi Mã La,
Chúng thần men suối mát, băng qua,
Thú rừng cứ tưởng là người thật,
Song bọn đi săn gọi quỷ ma.
Kế đó Vua ngâm ba vần kệ:
Các ngươi âu yếm tựa tình nhân,
Song lại khóc than thật não nùng,
Tiên chúng giống như người thế tục,
Cớ sao than khóc, hãy phân trần!
Các ngươi mơn trớn tựa uyên ương,
Song khóc đầy ai oán thảm thương,
Ðôi lứa khác nào người thế tục,
Sao sầu đau thế? Nói cho tường!
Như các tình nhân, cứ vuốt ve,
Song lời than khóc thật lê thê,
Các ngươi trông giống người trần tục,
Sao quá bi ai? Nói trẫm nghe!
Các vần kệ sau là do đôi bên đối đáp nhau:
Tiên Nữ:
Chàng, thiếp một đêm cách biệt nhau,
Không tình ân ái, nặng u sầu,
Tương tư, song chẳng bao giờ có
Ðêm ấy trở về được nữa đâu.
Quân Vương:
Sao nằm đêm ấy quá cô đơn,
Ðã khiến ngươi rền rĩ tiếc thương?
Ðôi trẻ giống như người thế tục
Mất tiền, hay lão phụ từ trần?
Tiên Nữ:
Ðằng kia, bóng mát, suối tuôn ra,
Giữa đá, rồi cơn bão thổi qua,
Vì quá lo âu tìm kiếm thiếp,
Nên tình quân đã lội qua bờ.
Trong lúc đôi chân thiếp rộn ràng,
Thiếp đi tìm cỏ nội hoa ngàn,
Làm vòng đeo, tặng chàng yêu dấu
Và thiếp, vừa khi gặp lại chàng.
Kết bó chuông vàng, đồng thảo xanh,
Thủy tiên trắng mát đượm sương lành
Cho chàng yêu cả vòng hoa cổ
Cùng thiếp, vừa khi gặp bạn tình.
Rồi sau thiếp hái bó hoa hồng
Là thứ hoa xinh đẹp nhất vùng,
Ðể kết liền cho chàng với thiếp
Vòng hoa đeo cổ, lúc tương phùng.
Kế hoa là lá, thiếp đi tìm
Về trải đầy trên mặt đất mềm
Nơi suốt đêm trường chung gối mộng,
Uyên ương thiêm thiếp giấc nồng êm.
Gỗ quế, trầm hương kế tiếp liền
Ðặt trên hòn đá, thiếp đâm nghiền,
Làm hương tắm khắp chàng yêu dấu
Và thiếp, mùi hương cực diệu huyền!
Ðứng bên bờ suối chảy tuôn dòng,
Thiếp hái hoa sen mãi đến cùng:
Chiều xuống, suối kia tràn khắp chốn,
Muốn sang bờ nọ, hết chờ mong!
Ðành đứng cả hai ở mỗi bờ,
Nhìn nhau tha thiết, ngóng ngang qua,
Ôi, bao tiếng khóc cười đôi ngả,
Ðêm ấy cùng đau đớn xót xa!
Sáng lại, vừng đông đã mọc cao,
Khi nhìn con suối cạn khô mau,
Thiếp, chàng vội bước, ôm nhau chặt,
Lập tức cùng cười, khóc với nhau!
Gần bảy trăm năm chỉ thiếu ba,
Từ khi chàng, thiếp phải chia xa,
Tim yêu tan nát sầu ly biệt,
Dằng dặc tưởng chừng trọn kiếp qua!
Quân Vương:
Ðời người kỳ hạn đến bao giờ?
Nếu chuyện này truyền lại thuở xưa,
Hoặc giả theo lời nhiều Trưởng Lão,
Thì đừng sợ hãi, nói cùng ta.
Tiên Nữ:
Một ngàn mùa hạ thắm, an khương,
Chẳng chịu nhiều đau khổ đoạn trường,
Ít gặp ưu sầu, đầy cực lạc,
Suốt đời ngập hạnh phúc yêu đương!
Khi Vua nghe vậy, Ngài suy nghĩ: Các sinh vật này thấp kém còn hơn loài người, thế mà vẫn khóc than mãi suốt bảy trăm năm ròng chỉ vì một đêm xa cách nhau, huống hồ ta đây, chúa tể cả một Quốc Độ rộng ba trăm dặm, lại đành bỏ hết cả vinh quang huy hoàng ấy đằng sau để phiêu bạt trong chốn núi rừng hoang dã. Thật là một sai lầm nghiêm trọng.
Ngài liền quay về lập tức. Khi đến thành Ba La Nại, triều thần hỏi Ngài có thấy việc gì hi hữu ở vùng Tuyết Sơn chăng, Ngài kể cho hội chúng nghe toàn thể câu chuyện kỳ dị kia, rồi từ đó về sau Ngài thực hành bố thí và an hưởng cảnh vinh hoa của mình.
Ðể giải thích việc này bậc Ðạo Sư ngâm vần kệ sau:
Nhờ được đôi tiên khuyến bảo vậy,
Ðại Vương trở lại bước đường ngay,
Bỏ săn, cấp dưỡng người nghèo túng,
An hưởng tháng ngày lướt nhẹ bay.
Và Ngài ngâm thêm hai vần kệ nữa:
Rút ra bài học của Tiên kia,
Ðừng cãi nhau, mà sửa thói lề,
Kẻo các Ngài sầu như bọn chúng
Suốt đời, vì chính bởi lầm mê.
Lấy ngay bài học tự đôi Tiên,
Ðừng khấu tranh, mà sửa thói quen,
Kẻo chịu đau buồn như bọn chúng
Suốt đời, vì chính lỗi lầm riêng.
Bấy giờ Hoàng Hậu Mallikà đứng dậy từ bảo tọa khi bà nghe Đức Như Lai thuyết giáo, rồi bà chấp hai tay đảnh lễ Ngài rất cung kính, trong lúc bà ngâm vần kệ cuối cùng:
Giờ đây kính bạch Thánh Nhân,
Với lòng nhu thuận phục tuân sẵn sàng,
Con nghe được các lời vàng,
Tràn đầy thiện ý, chứa chan nhân từ,
Muôn vàn phước đức Tôn Sư!
Ngài vừa khuyến nhủ, ưu tư trút liền!
Từ đó về sau, Vua xứ Kosala chung sống sắt cầm hòa hợp với Hoàng Hậu mãi mãi.
Khi pháp thoại này chấm dứt, bậc Ðạo Sư nhận diện tiền thân: Vào thời ấy, Vua xứ Kosala là vị Tiên Nam, Hoàng Hậu Mallikà là Tiên Nữ và ta chính là Vua Bhallàtiya.
***
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Năm - Phẩm Mười Bảy - Phẩm Tham Hành - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba
Phật Thuyết Kinh Trung Bộ - ðại Kinh ðoạn Tận ái - Phần Mười - Tóm Lược Về Diệt
Phật Thuyết Kinh Chư Phật Cảnh Giới Nhiếp Chân Thật - Phần Bảy
Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích - Pháp Hội Thứ Bảy - Pháp Hội Mặc Giáp Trang Nghiêm - Phần Hai
Phật Thuyết Kinh Tạp A Hàm - Kinh Ao Yết Già
Phật Thuyết Kinh Thập địa - Phẩm Mười - Phẩm địa Pháp Vân - Tập Hai