Phật Thuyết Kinh Tiểu Bộ - Tập Tám - Trưởng Lão Tăng Kệ - Chương Mười Sáu - Phẩm Hai Mươi Kệ

Kinh Đại thừa   •   Thứ hai, 25/12/2023, 22:19 PM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư An Thế Cao, Đời Hậu Hán

PHẬT THUYẾT KINH TIỂU BỘ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư 

An Thế Cao, Đời Hậu Hán  

TẬP TÁM

TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ  

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

PHẨM HAI MƯƠI KỆ

 

PHẦN MỘT  

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh là con người chị của Trưởng Lão Sankicca.

Ngài dưới sự hướng dẫn của cậu Ngài, và khi còn là Sa Di, đã chứng quả A La Hán. Sống hưởng an lạc giải thoát, Ngài muốn thọ Đại Giới và đi về nhà để xin phép bà mẹ.

Khi Ngài đi, Ngài bị các kẻ cướp bắt Ngài và muốn dâng Ngài để tế Thần. Các tên cướp tấn công Ngài nhưng Ngài đứng, không khuất phục.

Tên tướng cướp lấy làm ngạc nhiên, tán thán Ngài và nói:

Vì mục đích tế đàn,

Hoặc vì đích tài sản,

Những người chúng tôi giết,

Từ trước cho đến nay,

Không ai không sợ hãi,

Họ run sợ, rên xiết.

Nhưng Ngài không khiếp sợ,

Dung sắc càng hòa duyệt,

Vì sao Ngài không than,

Trong đại nạn như vậy.

Adhimutta trả lời:

Chủ cướp! Tâm không khổ,

Với người không kỳ vọng,

Mọi sợ hãi vượt qua,

Với người kiết sử đoạn.

Nhờ đoạn nhân sanh hữu,

Pháp được thấy như thật,

Ðối chết, không sợ hãi,

Nhờ gánh nặng đặt xuống.

Phạm hạnh ta khéo hành,

Con đường khéo tu tập,

Ta không có sợ chết,

Khi bệnh hoạn được diệt.

Phạm hạnh ta khéo hành,

Con đường khéo tu tập,

Hũu được thấy không ngọt,

Như bỏ độc dược uống.

Bờ kia đến, không thủ,

Việc làm xong, vô lậu,

Bằng lòng, thọ mạng diệt,

Như thoát lò sát sinh.

Pháp tánh đạt, tối thượng,

Ở đời, tuyệt sở hữu.

Như thoát ngôi nhà cháy,

Trong chết không sầu muộn.

Phàm có vật tụ họp,

Ðược sanh hữu chỗ nào,

Tuyệt đường mọi xuất ly,

Ðại ẩn sĩ nói vậy.

Ai hiểu rõ như vậy,

Như Đức Phật đã thuyết,

Không còn nắm sanh hữu,

Như hòn sắt cháy đỏ.

Quá khứ ta không có,

Tương lai, hiện tại không,

Các hành không thực hữu,

Ở đây, than khóc gì?

Thanh tịnh pháp sanh khởi,

Thanh tịnh hành tiếp tục,

Bậc thấy được như thật,

Không sợ hãi, thưa Ngài.

Với tuệ, thấy Thế Giới,

Giống như cỏ, thân cây,

Không có tánh ngã sở,

Không sầu muộn, không ngã.

Ta nhàm chán thân sắc,

Không ham có sanh hữu,

Khi thân này hoại diệt,

Sẽ không có thân khác.

Với thân ta, ngươi làm,

Hãy làm như ý muốn,

Ta không vì duyên ấy,

Sẽ khởi lên sân, ái.

Kẻ ấy nghe nói vậy,

Hy hữu, lông dựng ngược,

Quăng bỏ cả đao kiếm,

Thanh niên nói với ta.

Tôn Giả hành hạnh gì,

Ai Ðạo Sư Tôn Giả,

Ngài theo lời ai dạy,

Ðược tánh không sầu não?

Adhimutta:

Bậc Toàn Trí, Toàn Kiến,

Thắng giả, Giáo Sư ta,

Ðại từ bi Ðạo Sư,

Y Vương toàn Thế Giới.

Pháp này vị ấy giảng,

Ðưa đến đạt Vô Thượng,

Theo lời dạy vị ấy,

Ðược tánh không sầu não.

Kẻ cướp nghe Đại Sĩ,

Khéo thuyết giảng như vậy,

Chúng liền quăng vất bỏ,

Ðao gươm và vũ khí,

Một số bỏ nghề chúng,

Một số xin xuất gia.

Sau khi chúng xuất gia,

Trong giáo pháp thiện thệ,

Họ tu tập giác chi,

Năm lực, thành bậc trí.

Tâm hân hoan, ý mãn,

Các căn cảm xúc được,

Niết Bàn đạo, vô vi.

Trong thời Đức Phật tại thế, Ngài sanh ở Sàvatthi, làm một con Bà La Môn nổi tiếng, và khi lớn lên Ngài được gọi theo tên gia tộc Pàrapara là Pàràpariya.

Ðược khéo giáo dục về văn hệ Bà La Môn, một hôm Ngài đi đến Tịnh Xá Jetavana trong khi Thế Tôn đang thuyết pháp, và đến ngồi nghe, gần phía bên ngoài hội chúng.

Bậc Ðạo Sư, nhận xét tâm tánh Ngài, dạy Kinh Căn Tu Tập Indriyabhàvanà, nghe xong, Ngài khởi lòng tin, xin xuất gia.

Sau khi học Kinh này thuộc lòng, Ngài suy tư trên ý nghĩa, nghĩ rằng: Trong những bài Kệ, ý nghĩa được xuất hiện như thế này, thế này.

Sau khi suy tư về vấn đề các căn cảm thọ, Ngài phát triển thiền quán và sau một thời gian, Ngài chứng quả A La Hán.

Về sau, Ngài nói lên thiền định của Ngài với những bài Kệ như sau:

Khi Tỳ Kheo tên là,

Pàràpariya,

Ngồi độc cư một mình,

Viễn ly, tu thiền định,

Những tâm tư như sau,

Ðược khởi lên nơi Ngài:

Có gì là thứ lớp,

Là giới cấm, động tác?

Con người làm phận mình,

Không làm hại một ai?

Các căn của loài người,

Làm lợi ích, làm hại,

Không hộ trì, làm hại,

Có hộ trì, làm lợi.

Người chế ngự các căn,

Nguời phòng hộ các căn,

Người làm bổn phận mình,

Không làm hại một ai.

Con mắt đi đến sắc,

Không chế ngự ngăn chặn,

Không thấy các nguy hiểm,

Vị ấy không thoát khổ.

Lỗ tai đi đến tiếng,

Không chế ngự ngăn chặn,

Không thấy sự nguy hiểm,

Vị ấy không thoát khổ.

Không thấy sự xuất ly,

Thọ hưởng các mùi hương,

Vị ấy không thoát khổ,

Vì tham đắm các hương.

Nhớ chua ngọt tối thượng,

Nhớ vị đắng tối thượng,

Bị ái vị nô lệ,

Tâm không thể giác tỉnh.

Tưởng nhớ các cảm xúc,

Ðẹp đẽ và khoái cảm,

Ðam mê, duyên tham ái,

Gặp nhiều loại đau khổ.

Ý đối các pháp này

Tất cả là năm pháp,

Không có thể phòng hộ,

Khổ đi theo vị ấy.

Phần lớn các thân xác,

Ðầy tràn mủ và máu,

Do người thù thắng làm,

Thành hộp đẹp tô màu.

Cay đắng như vị ngọt,

Khổ do khả ái buộc,

Như dao bén dính mật,

Kẻ tham đâu có biết.

Ai tham đắm nữ sắc,

Nữ vị, nữ xúc chạm,

Ai mê say nữ hương,

Gặp nhiều loại đau khổ.

Mọi dòng từ nữ nhân,

Năm loại tràn năm xứ,

Người có tinh tấn lực,

Có thể ngăn chận chúng.

Người có đích, trú pháp,

Người thiện xảo, sáng suốt,

Hoan hỷ làm nghĩa vụ,

Liên hệ đến pháp, nghĩa.

Chìm trong việc lợi tạm,

Hãy bỏ việc không lợi,

Nếu nó nghĩ việc ấy,

Không phải việc nên làm,

Vị ấy không phóng dật,

Sáng suốt thấy rõ vậy.

Nếu là việc làm tốt,

Hân hoan hành đúng pháp,

Hãy nắm việc làm ngay,

Ðấy thật lạc tối thượng.

Với phương tiện cao thấp,

Lừa dối các người khác,

Ðánh giết, làm sầu khổ,

Hung bạo, áp đảo người.

Như người mạnh đẽo gỗ,

Dùng nêm đánh bật nêm,

Cũng vậy là kẻ thiện,

Dùng căn đánh bật căn.

Tu tập tín, tấn, định,

Huấn luyện niệm, trí tuệ,

Dùng năm đánh đổ năm,

Không tỳ vết bước tới.

Là vị Bà La Môn,

Người có đích, trú pháp,

Làm theo giáo huấn Phật,

Làm toàn diện, toàn lực,

Người ấy hưởng an lạc.

Trong thời Đức Phật hiện tại, Ngài sanh trước Đức Phật ở Sàvatthi trong một gia đình Bà La Môn và đặt tên là Kelakàni. Quá kinh nghiệm về những vấn đề quá khứ, Ngài chán nản dục vọng và xuất gia làm người du sĩ ngoại đạo.

Tìm sự giải thoát tinh thần, Ngài giao du nhiều chỗ, nghĩ rằng ai ở đời này đã đến được bờ bên kia. Ngài hỏi rất nhiều Sa Môn và Bà La Môn nhưng không được trả lời thỏa đáng.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đã ra đời, đang chuyển pháp luân, đem lại hạnh phúc cho chúng sanh. Một hôm, Kelakàni nghe Đức Phật thuyết pháp, khởi lòng tin, được xuất gia và không bao lâu chứng quả A La Hán.

Một hôm, ngồi với các Tỳ Kheo, nhớ đến sự khó nhọc tìm đạo và chứng đạo của mình, Ngài tuyên bố với chúng Tỳ Kheo như sau:

Lâu ngày, đầy nhiệt tình,

Ta suy tư chánh pháp,

Hỏi Sa Môn, Phạm Chí,

Nhưng tâm không an tịnh.

Ở đời, ai đã đến,

Ðến được bờ bên kia,

Ai đã chứng đạt được,

Lặn sâu vào bất tử,

Pháp ai ta chấp nhận,

Pháp thông đệ nhất nghĩa.

Mắc lưỡi câu bên trong,

Như cá ăn mồi tục,

Ta bị bắt, bị trói,

Chẳng khác A tu la,

Tên Vêpaxili,

Bị lưới Ðế Thích trói.

Ta kéo lê xiềng xích,

Không sao thoát sầu bi,

Ai cởi trói cho ta,

Giúp ta chứng Chánh Giác.

Sa Môn, Phạm Chí nào,

Nói cách hủy hoại chúng,

Pháp ai ta chấp nhận,

Giúp từ bỏ già chết,

Bị nghi hoặc trói buộc,

Bị hăng say chi phối,

Khiến tánh tình phẫn nộ,

Khiến tâm tư cứng rắn,

Bị xâu xé cắt đứt,

Bởi lòng tham mạnh mẽ.

Bị cung ái bắn trúng,

Ba mươi kiến trói buộc,

Xem sức mạnh ngực ta,

Bị áp đè, vẫn vững,

Các tùy kiến không đoạn,

Các tư niệm dao động,

Bị chúng đâm, ta run,

Như lá bị gió thổi,

Khởi lên từ nội tâm,

Ðốt cháy nhanh ngã sở,

Thân với sáu xúc xứ,

Ngã hữu từ đấy sanh.

Ta không thấy lương y,

Rút mũi tên cho ta,

Dùng cách khác dò tìm,

Không dùng dao thăm dò.

Có vị lương y nào,

Không dao, không vết thương,

Không hại đến tay chân,

Rút mũi tên cho ta,

Mũi tên đã đâm vào,

Trong nội tâm của ta,

Bậc pháp chủ tối tôn,

Loại trừ thuốc độc hại,

Khi ta rơi vực sâu,

Ðưa tay giúp đỡ ta,

Tới đất liền an toàn.

Ta lặn sâu trong hồ,

Ðầy bụi bùn không thoát,

Ðầy man trá, tật đố,

Căng thẳng và hôn ám.

Sấm trạo cử nổ vang,

Mây kiết sử bao phủ,

Thác nước tà tư duy,

Liên hệ đến tham dục,

Chúng lôi cuốn trôi ta,

Vào đại dương tà kiến.

Khắp nơi, dòng suối chảy,

Cây leo đứng, đâm chồi,

Ai chận đứng dòng ấy?

Ai chặt đứt cây leo?

Tôn Giả hãy làm đê,

Ngăn chận những dòng suối,

Chớ có để dòng nước,

Do ý sanh cuốn Ngài,

Như dòng nước cuốn gấp,

Trôi cây chảy theo dòng.

Cũng vậy ta sợ hãi,

Bờ này tìm bờ kia,

Khi ấy bậc Ðạo Sư,

Có Thánh chúng hầu hạ,

Với binh khí trí tuệ,

Chờ y chỉ cho người.

Ðưa ta, đang chìm đắm,

Chiếc cầu thang, khéo làm,

Phật thanh tịnh, vững chắc,

Làm bằng lõi chánh pháp,

Rồi Ngài nói với ta,

Chớ có sợ hãi gì!.

Leo lên lầu niệm xứ,

Từ đấy ta quán sát,

Loài người ưa thân kiến,

Trước đây, ta tự hào.

Khi ta thấy con đường,

Con thuyền cần leo lên,

Ta không trú tự ngã,

Vì thấy bến tối thượng.

Mũi tên khởi tự ngã,

Sanh do nhân sanh hữu

Ngài dạy đường tối thượng,

Chấm dứt các pháp ấy.

Cột gút đã lâu ngày,

Ẩn nằm, trú trong da,

Ðức Phật cởi, quăng đi,

Loại bỏ mọi độc hại.

Trong thời Ðức Phật hiện tại, Ngài sanh ra ở nước Kuru, trong thành phố Thullakotthita, con của một hội viên hội đồng thành phố tên Ratthapàla và được gọi theo tên gia tộc, Ngài được sống trong nhung lụa, lớn lên được gả vợ và sống như một Thiên Thần.

Khi Đức Phật đến thuyết pháp ở Thullakotthila, Ratthapàla đến nghe giảng, khởi lòng tin, xin cha mẹ được xuất gia rất khó khăn.

Ði đến bậc Ðạo Sư, Ngài được thọ giới với một Tỳ Kheo theo lời giới thiệu của Đức Phật, tu học rất tinh tấn, phát triển thiền quán và chứng quả A La Hán. Rồi Ngài được phép về thăm cha mẹ, đi đến Thullakotthita và đi khất thực từng nhà.

Ðến nhà cha mẹ, Ngài nhận được cơm chua đã lâu ngày nhưng Ngài vẫn ăn như là đồ ăn bất tử. Ngày sau, theo lời mời của người cha, Ngài đến thăm nhà và các người vợ trước của Ngài, ăn mặc rất đẹp đẽ, hỏi Ngài, vì những thiên nữ nào, Ngài đã xuất gia.

Ngài thuyết pháp cho họ về vô thường v.v… từ khước những hành vi cám dỗ của họ:

Hãy xem bóng trang sức,

Nhóm vết thương tích tụ,

Bệnh hoạn, nhiều tham tưởng,

Nhưng không gì trường cửu.

Hãy nhìn sắc trang sức,

Với châu báu, vòng tai,

Bộ xương, da bảo phủ,

Sáng chói nhờ y phục.

Chân sơn với son, sáp,

Mặt thoa với phấn bột,

Chỉ mê hoặc kẻ ngu,

Không mẹ bậc cầu giác.

Tóc được uốn tám vòng,

Mắt xoa với thuốc son,

Chỉ mê hoặc kẻ ngu,

Không mê bậc cầu giác.

Như hộp thuốc mới sơn,

Uế thân được trang điểm,

Chỉ mê hoặc kẻ ngu,

Không mẹ bậc cầu giác.

Thợ săn bày lưới sập,

Nai khôn không chạm lưới,

Ăn mồi xong, ta đi,

Mặc kẻ bắt nai khóc.

Bẫy thợ săn bị cắt,

Nai khôn không chạm lưới,

Ăn mồi xong, ta đi,

Mặc kẻ săn nai sầu.

Rồi Ratthapàla đi ngang qua hư không đến vườn nai của Vua Koravya và ngồi trên một phiến đá.

Người cha của Ngài cho đóng chốt then cài cả bảy cái cửa, và cắt người giữ Ngài không cho đi, lại lấy chiếc y vàng của Ngài và choàng vào Ngài y trắng của người Cư Sĩ. Do vậy Ngài phải đi ngang qua hư không.

Rồi Vua Koravya, nghe Ngài đã đến vườn nai, liền chào Ngài và hỏi: Thưa Tôn Giả, ở đời người ta xuất gia vì một vài tai họa, như bệnh hoạn, như tai họa từ nhà Vua, về tài sản, về gia đình.

Ngài không có một tai họa gì, sao Ngài lại xuất gia?

Vị Trưởng Lão trả lời: Thế Giới là vô thường, không có gì trường cửu. Thế Giới không có nơi nương tựa, thiếu thốn, không có thỏa mãn, làm nô lệ cho khát ái.

Rồi Ngài nói lên những bài Kệ như sau:

Ta thấy người đời giàu,

Ðược tiền, si không cho,

Vì tham, cất chứa tiền,

Chạy theo dục càng nhiều.

Vua dùng lực chiếm đất,

Chiếm ở đến bờ biên,

Biên bên này chưa thỏa,

Còn muốn biên bờ kia.

Vua và rất nhiều người,

Ai chưa chết, đã chết,

Tái sanh, bị thiếu thốn,

Chúng từ bỏ thân này,

Nhưng ở đời lòng dục,

Không bao giờ thỏa mãn.

Bà con than khóc nó,

Tóc xõa, rối tơ vò,

Chúng nói: Ôi chúng ta,

Không có được bất tử,

Thân trùm vải, chúng mang,

Dựng giàn hỏa, chúng thiêu.

Bị cây đâm, cây thọc,

Nó bị thiêu bị cháy,

Chỉ với một tấm vải,

Từ bỏ mọi tài sản,

Kẻ chết không nương tựa,

Bà con, bạn láng giềng.

Kẻ thừa tự mang đi,

Tài sản gia nghiệp nó.

Riêng con người phải đi,

Theo chỗ, nghiệp nó tạo,

Tài sản không có đi,

Ði theo người đã chết,

Không con trai, không vợ,

Không tài sản, Quốc Độ.

Tài sản không làm sao,

Mua được tuổi trường thọ.

Phú quý nào có thể,

Tránh khỏi được già suy.

Bậc có trí nói rằng:

Mạng sống này ít ỏi,

Thật sự là vô thường,

Luôn luôn bị biến hoại.

Giàu, nghèo đều cảm xúc,

Ngu, trí đồng cảm thọ,

Kẻ ngu bị ngu đánh,

Ngã quỵ, nằm dài xuống.

Còn bậc trí không sợ,

Ðối với mọi cảm xúc.

Do vậy tuệ thắng tài,

Nhờ tuệ đạt viên mãn,

Chưa đạt được cứu cánh,

Ðối với hữu, phi hữu,

Kẻ ngu làm các nghiệp,

Ác độc và bất thiện.

Nhập thai, sanh đời khác,

Luân hồi, tiếp tục sanh,

Kẻ ít trí, tin tưởng,

Nhập thai, sanh đời khác.

Như kẻ trộm bị bắt,

Quả tang, khi ăn trộm,

Do nghiệp tự chính nó,

Bị hại theo ác tội,

Cũng vậy sau khi chết,

Quần chúng trong đời sau,

Do nghiệp tự chính nó,

Bị hại theo ác tội.

Các dục thật đẹp đẽ,

Vị ngọt và khả ái,

Chúng làm tâm đắm say,

Với sắc và phi sắc,

Do thấy sự nguy hiểm,

Trong các dục công đức,

Do vậy tôi xuất gia,

Như vậy thưa Ðại Vương,

Như trái cây rụng xuống,

Cũng vậy tuổi thanh niên,

Lớn lên và già yếu,

Rồi thân hoại mạng chung,

Thấy vậy tôi xuất gia,

Như vậy thưa Ðại Vương,

Ðời sống Sa Môn hạnh,

Chơn thật, tốt đẹp hơn.

Tín tâm tôi xuất gia,

Vào giáo hội bậc thánh,

Tôi xuất gia không tội,

Không nợ, tôi thọ thực.

Thấy dục như lửa hừng,

Thấy vàng như dao đâm,

Xem nhập thai là khổ,

Họa lớn trong địa ngục.

Thấy nguy hiểm như vậy,

Ta cảm thấy hoảng sợ,

Khi bị đâm, bị thương,

Ta đạt được tịch tịnh,

Và ta tận diệt được,

Cả ba loại lậu hoặc.

Ðạo Sư, ta hầu hạ,

Lời Phật dạy, làm xong,

Gánh nặng, đặt xuống thấp,

Gốc sanh hữu, nhổ sạch.

Vì đích gì xuất gia,

Bỏ nhà, sống không nhà,

Mục đích ấy ta đạt,

Mọi kiết sử tận diệt.

***

icon

Tổng hợp

Cùng chủ đề

Phật Thuyết Kinh đại Bát Nhã Ba La Mật đa - Hội Thứ Ba - Phẩm Ba Mươi Mốt - Phẩm Tuyên Hóa - Phần Ba

Kinh Đại thừa   •   25.12.2023
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần